Cái Chết Trâu Hay
HÒA VĂN
C hẳng cần tới tháng tám nắng mới nám trái
bưởi, do biến đổi khí hậu, nửa tháng năm dương lịch mà thời tiết oi bức nắng
như thiêu như đốt.
Cách đây mấy bữa
trước có mưa rải rác xã Tây, xã Trung, còn ở xã Đông nầy không có hột mưa nào,
cánh đồng từ sau gặt hái trơ gốc rạ, những đám ruộng cày bệ đất khô ải trắng
bốc. Vụ Hè thu tới không biết ra sao chứ vụ Đông xuân vừa rồi nhiều diện tích
lúa, màu đang trổ gặp đợt mưa lạnh bất thường, ngô hạt không đầy cùi, đậu phụng
nhiều trái vú heo, lúa ngơ bông lép hạt, năng suất giảm trên dưới ba mươi phần
trăm, có thửa hư nặng hơn sản lượng thua hết một nửa so với cùng vụ năm ngoái.
Làm ruộng nói như
bốn Nghiên “Cơm cũ đổi gạo mới” đầu vụ cày bừa, gieo cấy… lam lũ cuối vụ thu
hoạch xong trả các khoản chi phí phân bón, thuốc men, công cán… chẳng còn bao
nhiêu, được cái có lúa gạo trong nhà đỡ lo đói, nhà nào làm ruộng chay không dễ
gì khá lên!.
Sáng nay bốn Nghiên
đưa trâu ra đồng cày mở hàng, thông thường nếu không hạn trạm thuỷ lợi xóm Hạ
bơm nước đổ bệ, cày dầm khoẻ hơn, nay cày ruộng khô, ban đầu trâu cày khí thế
lắm, đến gần nửa buổi nắng quá trâu bắt đầu lơ là, bốn Nghiên phải tâng lưỡi
cày lên, cho cày ăn đất cạn nhẹ bớt, thế mà trâu vẫn ì ạch, bốn Nghiên tay vút
roi, miệng quát tháo đủ điều trâu cũng chỉ cố kéo cày thêm mấy đường, rồi lại
ngó nam ngó bắc. Hò trâu dừng lại, lấy điện thoại ra xem đồng hồ, bốn Nghiên
nói với ba Ngơi đang lom khom xớt bờ ruộng kế bên: “Hơn chín giờ rồi! Hèn chi
mình mệt lả, nghỉ uống nước, ba Ngơi!”
Dưới bóng râm vạt
cây keo lá tràm, bốn Nghiên lót nón lá ngồi dựa lưng vào bờ đất, cùng hai ông
bạn nhà nông trong xóm, người ngồi bó gối, người ngồi bệt trên cán cuốc, mỗi
người mỗi uống nước trà đựng trong chai nhựa mang theo.
Trâu nằm sải chân,
mắt lim dim. Trời càng thêm nắng gắt hơn. Chặp chặp có một chút gió nhưng gió
mang theo hơi nóng hầm hập càng tăng thêm nóng bức.
Con trâu của bốn
Nghiên có dáng dấp chững chạc khoan thai!, lưng dài vai rộng, cặp chân trước
thon, xoáy đẹp đóng ở bàn toạ, mỗi ngày cày ít nhất mẫu ruộng nước, hoặc hơn
nửa mẫu đất thổ, vì thế nó có tên trâu Hay.
Bốn Nghiên hỏi:
“Bảy Khi ơi, mi biết tại răng họ nói ngu như trâu không?” Bị hỏi bất thình lình
bảy Khi ú ớ trả lời: “Nó ngu họ nói ngu chứ răng tê chi!” “Nói như mi tau hỏi
cái đầu gối chắc hơn!”. Bảy Khi lâu nay được biết đến là người có tiếng hay chữ
dù không học trường lớp nào cao xa, làm chức sắc chi to lớn nhưng được cái chịu
khó tự mày mò học hỏi sách vở, có trí nhớ dai, thông thạo nhiều chuyện, bị bốn
Nghiên chọc nổi nóng bừng bừng.
Bảy Khi nói: “Không
ngu sao được, trong lúc chó, gà, dê, ngỗng, … rồi hổ, báo, … cũng là con vật mà
nó sướng ru, sinh ra là ăn chơi mút mùa, đói ăn, khát uống, còn con trâu suốt
đời làm lụng vất vả không ngu mới lạ!”. Ba Ngơi không chịu: “Làm nhiều đâu phải
là ngu! Ví như mình đây quanh năm suốt tháng bán mặt cho đất bán lưng cho trời,
ngu à!”. Bảy Khi tức anh ách, bữa nay đến ba Ngơi cũng cãi lại mình! bảy Khi
gằn giọng: “Theo chú mi tại răng ngu?”. “Hà… hà… bảy Khi rồi phải không?. Bó tay nói bó tay để
ba Ngơi tôi nói” ba Ngơi cười tươi rói, gật gật cái đầu tỏ ra hớn hở lắm, bởi
hồi tối Thy con gái Ba Ngơi dô mạng Internet đọc được câu trả lời như sau -
Rất đơn giản bởi vì con người thông minh hơn trâu nên mới gọi nó ngu,
chứ nếu một mai có một loài động vật nào đó thông minh hơn con người
thì loài động vật đó sẽ bảo nhau là: "Ngu như người” – Đọc xong
Thy hỏi họ nói vậy có đúng không ba? đúng hay không ba Ngơi chưa trả lời với
con gái - nhưng bây giờ dựa vào thông tin mạng ba Ngơi trả lời bảy Khi một cách
lưu loát, bảo bảy Khi không tức sao được!.
Trâu Hay nằm vểnh
tai nghe, chẳng rõ có biết gì không mà loanh quanh hết đứng lại nằm y như bụng
đang bị đốt lửa rơm! bốn Nghiên quấn điếu thuốc lá to bằng ngón cẳng cái, thò
tay vào túi áo lấy họp quẹt ga bât lửa mồi thuốc hít một hơi thật đã, rồi nói:
“Bữa nay tau nghe ba Ngơi nói được, ít nhất cũng có lý, có lẽ như rứa, chứ bảy
Khi thì chỉ khoác lác thôi!”. Bảy Khi nãy giờ nuốt cơn giận bấm bụng cho qua,
tính đứng dậy đi xớt bờ cuốc góc tiếp nào ngờ bốn Nghiên còn nói móc họng, bảy
Khi chống cuốc lên tiếng: “Không giỡn nghe! thứ trâu, bò mà kể dô! nói về các
loài động vật trên rừng dưới biển ở đây ai rành bằng! không thể nói như ba Ngơi
được”. Bốn Nghiên xoe tròn mắt, vặn vẹo: “Không biết dựa cột nghe, không cà
kê!” Đoạn đứng phứt dậy bỏ đi. Bảy Khi xông vào túm lấy cổ áo bốn Nghiên hành
hung. Trâu Hay đứng bật dậy dùng cặp sừng nhọn hoắt xốc bảy Khi giống như người
ta cất vó kéo cá mùa lũ lụt rồi vất xuống nghe cái bịch. Bất ngờ, bảy Khi bị
đòn đau quá, mặt méo xẹo kêu gào náo động cả cánh đồng. Bốn đứa con bảy Khi
đang độ trai tráng, nghe cha bị trâu Hay húc, giận dữ kéo đến la ó đòi ăn thua
đủ, thay vì coi thử ông cha có bị thương tích gì không, lại hè nhau dùng cuốc
đánh trâu mà lạ trâu hay chẳng có phản ứng gì, đưa đầu chịu trận xong lăn đùng
ra chết. Bảy Khi toá hoả bỏ chạy về nhà, may mà chỉ trầy sước sơ sơ ở thắt
lưng.Các con bảy Khi tuyên bố: “Bao nhiêu tiền! đền!”, rồi mổ thịt trâu chia
nhau ăn.
Trâu hay chết nhà
bốn Nghiên và bà con xóm Hạ tiếc lắm! Thoa, cô con gái út bốn Nghiên từ lúc có
trâu Hay tới nay thường ngày chăn dắt tắm rửa cho nó ăn uống nên không những
tiếc mà còn khóc lóc mấy ngày liền. Thoa nói: “Trong hai con trâu nhà nuôi,
trâu Hay hiền lành hơn trâu Mộng nhiều lắm!”

Từ xưa trâu là loài
vật được coi là biểu tượng cát lợi, từ lâu con trâu là đầu cơ nghiệp của nhà
nông. Theo bốn Nghiên con trâu đạo mạo tựa “người học vấn cao” cỡ “tiến sĩ
giấy” xếp sau trâu mấy chục bậc! trâu khôn chứ không ngu như người ta tưởng,
bằng chứng nó làm tốt nhiều việc con người bày biểu, nhớ hồi làm thịt con trấu
ở tổ sản xuất xóm Hạ, biết sắp chết nước mắt nó đổ ràn rụa, quỳ hai chân trước
xuống tỏ ý van xin người ta đừng giết nó!.
Có lẽ vì quá mến
thương nên mấy đêm bốn Nghiên ngủ mơ thấy trâu hay về cho biết các loài động
vật sau khi chết lúc qua sông Hắc Thuỷ tất cả đều phải ăn một báo cháo lú nhằm
quên mọi sự việc ở trần thế, kiếp trước trâu Hay bất tuân, nhận bát cháo xong
len lén đổ bỏ, rồi cũng giả khờ giả dại qua sông, nhưng làm sao qua mắt Diêm
Vương được, nên bị đày làm trâu. Lần nầy trâu Hay ăn cháo lú qua sông Hắc Thuỷ
rồi./.
HÒA VĂN
Đêm Thơ
HÒA VĂN
Ban đầu tôi định khước từ lời mời. Nhưng đến
chiều lại suy nghĩ “nó” nhà thơ từnglà bạn thuở thiếu thời ở cái vùng quê yêu
quý nầy sau bao năm bôn ba ở xứ người nay quay trở về chốn cũ giới thiệu thơ do
chính nó làm ra cớ sao mình từ chối.
Thế là tôi đi.
Khu nhà vườn được
bài trí nhìn được chứ không đẹp. Như thế cũng tốt quá rồi đòihỏi gì hơn. Nghe
nói “nó” bỏ ra đâu hơn ba trăm rưỡi triệu thuê nghệ nhân về hì hục làm cả nửa
năm đào ao, đắp ụ, chạm khắc trên gỗ trên đá, sắp đặt nầy nọ...
Đêm nay sẽ có hai
mục đích giới thiệu khu nhà vườn (mà làm để đấy chứ ít nhất đến sáu, bảy mươi tuổi kia nó mới về ở) và mục đích thứ
hai đêm thơ.
Nửa chiều khách
thập phương ùn ùn đến. Nhà thơ Huy Huy tức là “nó” chạy tới chạy lui hết chào
đón ông nầy đến tiếp bà kia ngoài ra còn chỉ đạo các vụ khác như bàn, ghế, thức
ăn, đồ uống... trông Huy Huy mệt
lử người.
Cô MC đến giờ chưa
tới. Chết!. Toàn bộ chương trình đã lên từ A đến Z chuẩn bị đâu vào đó trước
đây ba hôm giờ chẳng lẽ đi tong.
Huy Huy điện thoại
liên tục:
“Dạ em sắp tới!. Dạ
Dạ!...”.
Em MC dạ qua máy
điện thoại ngọt xợt như mía lùi ai
nỡ nào gắt gỏng!. Huy Huy nghĩ như vậy nhưng bụng dạ thì quýnh quáng...
“Hay ông làm giùm
MC!”. Huy Huy nói với tôi như thế.
“Được thôi nhưng
khách bỏ tiệc đứng dậy về hết mi chịu!”. Tôi vừa cười cười vừa trả lời vui!.
“Ông nói sao?”.
Dàn âm thanh đang trỗi lên bài hát nghe quen quen
nhưng mở vô-lum mức to loa rè câm nghe chẳng thú vị gì mà còn gây ồn ào lấn át
hết mọi cuộc nói chuyện nói trò ở đây.
Một anh ở xa đến tỏ
vẻ bực bội nói:
“Hay là họ nói bọn
mình ngồi đây toàn là tóc đã điểm sương nên nghễnh
tai!”.
Anh ta nói một hơi
dài rồi đứng dậy đi thẳng vô chỗ bàn âm thanh nói gì trong đó không rõ, âm
thanh đột nhiên tắt ngấm.
“Alô. Cốc cốc!.”.
Thì ra họ thử máy.
Bây giờ đã gần hai
mươi giờ.
Huy Huy lại điện
thoại. MC lại trả lời. Không rõ thế nào trông Huy Huy có vẻ đỡ sốt ruột hơn một
chút chứ bộ mặt vẫn rầu rầu.
Tình thế như thế
này tôi phải ra tay. Tôi sang bàn gần bàn ban tổ chức nói với ông Hai Khiển:
“Huy Huy nhờ ông
Hai làm MC giúp cho nó buổi nầy!”.
Ông Hai Khiển nãy
giờ uống rượu lai rai đang hưng phấn gật gù tỏ ra vẻ suy nghĩ lung lắm rồi mới
nói:
“Để coi thử!”.
Tôi nói:
“Giờ làm thì làm
ngay chứ coi ngó gì nữa?”.
“Ừ!”.
Ông Hai Khiển tuổi
sáu mươi bốn mà còn phong độ lắm ai không biết tưởng chừng mới trên năm mươi là
nhiều. Gốc gác ở đây giờ ra phố. Cha của ông trước đây từng theo Sơn Đông mãi
võ cho nên gien đứng nói trước công chúng của nhà ông ở làng không ai bì kịp,
có cái ít khi trổ tài trừ trường hợp chỗ bà con, bạn bè thân thiết. Như vậy giờ
ông làm là đúng bài quá còn gì. Tôi lơ đãng nghĩ nghĩ như thế, ông vỗ vai tôi
nói:
“Lão (ông Hai Khiển
hay gọi tôi như vậy) biểu thằng Huy Huy lại đây”.
Huy Huy nghe lại
liền chứ chưa cần kêu.
“Đợi năm phút nữa
MC không tới tau sẽ làm!”.
Huy Huy mừng rơn
trong bụng. Miệng mấp máy nói từng chữ:
“Được thế cháu đội
ơn ông”.
Huy Huy và ông Hai
Khiển bà con trong họ.
Năm phút trôi qua.
Khu nhà vườn trên hai sào đất giờ đông người lắm rồi. Khách đã ngồi vào bàn.
Trên mỗi bàn có rượu và thịt. Nói chung thực đơn gọn một món nhưng chất lượng cao. Thịt bò bê nuôi ở đây là
thịt đặc sản nổi tiếng không chỉ ở trong tỉnh mà ra Bắc vào Nam đều nức
danh có điều giá cả cao hơn bò nuôi các nơi khác. Nhưng mắc rẻ tính toán làm gì
nhìn lát thịt bò biết nó được thui kỳ công và xắt đúng bài bản đã ngon rồi chứ
chưa nói còn có rau sống thương hiệu Trà Quế, lại thêm trái chuối sứ, trái khế
xắt mỏng... chấm với nước mắm cũng đặc sản của xứ Quảng xong ăn cả ba vị ấy kèm
theo bánh tráng Phú Chiêm và vị cay cay của trái ớt khi cắn dòn tan nghe kêu
cái cớp, bê thui món ngon vật lạ là đây chứ còn gì!.
Khu vườn chìm dần
vào đêm càng đẹp. Những ô vuông cỏ được cắt tỉa mới nhu nhú những chiếc lá non
mướt giờ hình như đang mở rộng ra đón những giọt nước ngưng tụ trên mút lá dưới
ánh sáng đèn điện có màu trăng trắng lung linh quá đẹp!. Tôi để ý đến lá cỏ chứ
không ngắm nhìn hòn non bộ giả, cũng cây xanh, cũng cầu kiều, cũng có ông tiều
phu và lác đác ngôi nhà sát vách núi phối cảnh lộng lẫy thật đó nhưng càng nhìn
nó sông sống thế nào ấy... Bây giờ có quá nhiều thứ làm giả đẹp hơn cả thiệt tỉ
dụ như các chậu hoa đồng tiền, cúc đại đoá, sen ngũ màu và cả chậu mai đã tháng
Hai rồi mà còn có nụ chúm chím sắp nở còn phần lớn mai nở vàng rực...
Tôi ngồi mải miết
mông lung... còn ông Hai Khiển cầm micro làm MC lúc nào chẳng hay.
Tình yêu thơ ca của
đất nước quê hương mình thật quý hoá!. Ngày xưa cả tỉnh cả miền cũng đâu có mấy
vị là văn nhân thi sĩ bây giờ nhiều lắm. Chỉ tính làng tôi đã có năm nhà thơ. Ở
tại chỗ bốn vị đang ở xa một vị. Vị ở xa là Huy Huy.
“Ba năm rặn một
bài thơ/ Giờ ngâm lỡ vận biết rờ chỗ mô...”
Ông Hai Khiển mở
đầu bằng hai câu ứng tác như trên khiến không khí ầm ầm lên ngay.
Giống bất kỳ MC khác ông Hai Khiển rành “sáu
câu” chào hỏi và đưa đón. Huy Huy ngồi cạnh người bạn thời còn tóc để chỏm giờ
là doanh nhân thành đạt gật gù nhìn ông Hai Khiển không biết khen hay lo mà nét
mặt vẫn chưa thấy chút gì phấn khởi cả!. Đúng ra như mấy đám thơ ca khác người
được giới thiệu tác phẩm khuôn mặt bao giờ cũng tỏ vẻ hớn hở và tự tin lắm.
Đàng này...
Người bạn ngồi kế
bên nhắc:
“Ông đã chuẩn bị
bài phát biểu rồi?”.
Huy Huy không trả
lời chỉ gật gật đầu. Xong lấy điện thoại ra nghe cuộc gọi.
“...”
“Dạ!. Mong anh cùng
các bạn nhanh lên!”.
Thì ra cũng là điện
thoại của nhóm bạn hữu trong đó có cô MC gọi tới.
Phía trên MC Hai
Khiển ngỏ lời phi lộ:
“Thưa quý bạn hữu
gần xa của nhà thơ Huy Huy. Một chặp nữa cô MC của chương trình sẽ đến. Để
không khí khỏi quá yên lặng tôi Hai Khiển tạm đảm nhiệm MC.”
Bên dưới mọi người
vỗ tay vì MC đẹp lão vừa có giọng Quảng chính gốc rất điệu nghệ trong dẫn
chương trình xưa nay.
MC tiếp:
“Thật ra câu “Ba
năm rặn một bài thơ/ Giờ ngâm lỡ vận biết rờ chỗ mô...” chỉ là câu vè mang thể sáu tám chứ không
thể gọi là thơ được phải không quý vị!. Lâu nay mình có suy nghĩ hơi quá cứ ai
đó làm được năm ba bài có vần điệu thì gán là nhà thơ!. Chứ đúng nhà thơ họ lao
tâm khổ tứ dữ lắm mới có một tác phẩm. Lại nữa Hai Khiển tôi cũng hay nghe một
đôi người nói được huống hồ gì người nào ấy họ yêu thơ làm thơ nghe chắc buồn
lắm!. Buồn không phải bị chê bai mà chính buồn vì “sự thưởng thức tiếp nhận thơ
vốn lịch lãm đã bị tầm thường hoá thô điển”. Ông Hai Khiển nói đại ý có một nhà
văn hoá nhận định “Một dân tộc không có văn học (Văn học nghệ thuật nói chung)
dân tộc đó đi dần tới chỗ suy vong”.
Tiếng vỗ tay đồng
tình những lời ông Hai Khiển vừa nói kéo dài...
Một chiếc xe dừng
lại trước cổng. Đoàn bạn bè của nhà thơ Huy Huy vừa đến trong đó có cô MC.
Đêm thơ giới thiệu
tác phẩm mới của Huy Huy bắt đầu.
Tiếng đàn bầu,
tiếng sáo, giọng ngâm thơ sâu lắng dịu ngọt của một cô giáo dắt mọi người nhớ
lại miền quê êm dịu thuở nào... Nơi có dòng sông, bến đò, cô em gái, người mẹ,
người cha... nơi cây đa cả năm người cùng dang tay kết nối lại mới vừa đủ ôm
cái gốc. Cây đa trên mấy trăm tuổi cành lá sum sê mát rượi cả sào đất bên bức
bình phong ở sân đình.
Đêm thơ càng về
khuya càng dìu dặt lòng người..../.
HÒA VĂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét