Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

Phạm Hầu họa sĩ-thĩ sĩ



Trên văn đàn, có nhà thơ viết trước sau chỉ khoảng 20 bài thơ, thế nhưng nhắc đến ông là người ta nhớ đến hai câu bất hủ Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai?. Thế mới biết, đi vào trái tim nhân thế đâu cứ phải thiên kinh vạn quyển...
Đó là nhà thơ đất Điện Bàn - Phạm Hầu, người được Hoài Thanh - Hoài Chân phác họa chân dung trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” (NXB Văn học, 2000, tr 226, 227) bằng vài nét cảm nhận về thơ rằng: “Ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi”; “Hồn thơ là một cái gì đó rất mong manh”...
Họa sĩ làm... thơ
Phạm Hầu (1920 - 1944), tên trong gia phả là Phạm Hữu Hầu, sinh ở Gò Nổi, làng Trừng Giang nay thôn Hòa Giang, xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Cha ông là Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm “Ngũ phụng Tề phi” xứ Quảng, từng làm quan đến chức Tổng đốc Nghệ An rồi Thượng thư Bộ Binh dưới 4 triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo Đại.
Lúc nhỏ, ông học Trường Quốc học Huế, sau ra Hà Nội học tại Trường Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới (Quảng Bình) - Huế, thì ông mất.
Về sự ra đi đột ngột của nhà thơ, trong cuốn “Việt Nam thi nhân tiền chiến - Quyển 2” (NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1968, tr. 91-95) viết như sau:
“(Phát giác ông mất), người soát vé bắt buộc người thân đi theo phải đem xác ông xuống ga Truồi (Huế). Từ nơi đó, người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế rồi an táng trên một đồi nhỏ, sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao.
Và để tiễn biệt một linh hồn cô đơn đi vào nơi yên nghỉ cuối cùng, người ta chỉ nghe đôi câu kinh, vài tiếng thút thít trong một chiều mưa gió thê lương...”.
Ông vẫy ngoài vô tận ngày 3 tháng 1 năm 1944, hưởng dương 24 tuổi, để lại cho đời khoảng 20 bài thơ, nhưng đó là những viên ngọc quý trong kho tàng thi ca Việt Nam, trong đó nổi tiếng nhất là Vọng hải đài.
Bức ảnh chân dung ông Trần Văn Anh
Học Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa 13, Phạm Hầu là họa sĩ, nhưng rất tiếc không rõ ông có bao nhiêu họa phẩm. Vào tháng 5-2017, nhà văn Hòa Văn (quê làng Đông Bàn, xã Điện Trung) công bố trên blog của mình (hoavanruotra.blogspot.com) bài viết “Tìm thấy một họa phẩm của họa sĩ Phạm Hầu”. Đó là bức chân dung ông thợ mộc Trần Văn Anh cùng làng Trừng Giang với họa sĩ, vẽ bằng bút chì đường nét còn tốt.
Tác giả dẫn lời ông Trần Cao Hoang (tên thường gọi Trần Văn Quận, cháu nội ông Trần Văn Anh hiện ở làng Trừng Giang) cho biết, ông Anh làm thợ mộc, thường hay đóng cho nhà ông Phạm Liệu các đồ gia dụng bằng gỗ.
Hôm ấy họa sĩ - thi sĩ Phạm Hầu vừa về nhà gặp ông đang lắp ráp đồ mộc. Thi sĩ - họa sĩ ngỏ ý: “Trưa ông về lấy khăn đóng áo dài trở lại nhà đây tôi xin vẽ chân dung của ông”. Thế là bức chân dung được vẽ xong. Nay tuy không còn như ban đầu do giấy không tốt nhưng nét vẽ đúng thần thái của ông Trần Văn Anh, được người cháu nội lưu giữ làm di ảnh thờ.
Sinh phận mong manh, người thơ phong vận
Viết về nhà thơ Phạm Hầu, chạnh nhớ đến nhà văn Hoàng Minh Nhân, người đã cặm cụi sưu tầm tư liệu để cho ra đời cuốn “Vẫy ngoài vô tận” (NXB Thanh Niên, 2001).
Người viết từng cộng tác với nhà văn Hoàng Minh Nhân khi ông nhận lời Ban Biên tập Tạp chí Văn Hiến tổ chức bài vở cho khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Có lần cùng ông lên viếng Ngũ Hành Sơn, dừng chân trước Vọng hải đài và mường tượng đâu đó có bóng dáng nhà thơ – chàng trai trẻ của gần 70 năm trước đang trầm ngâm ngắm non xanh biển thẳm, rồi bất chợt rùng mình giữa chốn linh thiêng mà rứt lòng ra những câu thơ diễm tuyệt: “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai?”.
Vọng hải đài trên ngọn Thủy Sơn ở danh thắng Ngũ Hành Sơn.
Cái cảm giác chông chênh, nhẹ hẫng khi đứng trên đài trông ra biển ấy đã nâng nhà thơ người Điện Bàn lên với gió với mây, chạm đến khoảnh khắc hiện tồn mà bất giác neo một câu hỏi nửa thực nửa hư vào bao la vô tận.
Ngày trước, hai câu thơ bất hủ đó đã lọt vào mắt xanh của Hoài Thanh - Hoài Chân và hai nhà phê bình văn học này đã “tạc” chân dung "vẫy ngoài vô tận" của Phạm Hầu vào cuốn Thi nhân Việt Nam 1932-1941 từ năm 1942 với bản in lần đầu do Nguyễn Đức Phiên xuất bản.
Ở nơi cao xanh nào đó, Phạm thi sĩ hẳn đã tỏ lòng cảm ơn Ngũ Hành Sơn nói chung, Vọng Hải đài nói riêng, với cảnh sắc trời mây non nước, đã khiến mình “phải lòng” mà cảm tác nên những câu thơ được người đời nhắc hoài đến… vô tận!
Thi sĩ Bùi Giáng trong tạp văn Phạm Hầu đăng trong cuốn Thi ca Tư tưởng xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn, đã nhận xét về ông: “Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh.
Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian”.
Hai mươi mấy tuổi đầu quả là “mong manh sinh phận”, một sự mong manh khiến tác giả Nguyễn Thanh Tâm bật lên câu hỏi đầy cảm thán trong bài “Phạm Hầu - Gieo lệ vàng trên ngấn nắng…” đăng trên Chuyên trang Văn học Quê nhà - Báo điện tử Tổ Quốc (vanhocquenha.vn) của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
“Tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Nếu Phạm Hầu không “ngã hồn” ở tuổi 24 trên chuyến tàu muộn về xứ Huế ấy, hành trình thi nghiệp của ông sẽ đi về đâu và có một dạng thái như thế nào? Với chút mong manh của sinh phận, những điều đã biết về Phạm Hầu, về thơ ông, dù ít ỏi, nhưng cứ làm người ta thấy tiêng tiếc”.
Định mệnh đã tước đi ở con người tài hoa ấy cái tuổi thanh xuân tươi đẹp nhưng đã bù lại một chất thơ là lạ làm cho thơ ông mãi ở lại trong lòng người yêu thơ cho dù ông đã thênh thang làm một cuộc dạo chơi "vẫy ngoài vô tận":
“Thơ Phạm Hầu có chất, biểu hiện bằng một thi điệu riêng khá quyến rũ. Cái quyến rũ của chất thơ là lạ, rung cảm và mong manh. Đặc biệt, thơ Phạm Hầu toát ra một thứ khí vị tiêu trầm, yểu vong, ám ảnh vào lòng người đọc.
Như Hàn Mặc Tử đã có lần thốt lên: Người thơ phong vận như thơ ấy, thơ Phạm Hầu là con người, là tinh túy của cõi trần ghé tạm vài mươi năm tuổi trẻ”. (Nguyễn Thanh Tâm, bài đã dẫn).
Cuộc rong chơi ghé tạm cõi trần của nhà thơ đã dừng lại khi ông chỉ mới tròn tuổi 24. Thế mà ngày ông chào đời tính đến nay đã gần một thế kỷ (ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1920). Người đã ra đi về cõi vô tận nhưng thơ thì vẫn chẳng thể xa lòng đối với tín đồ của một giáo phái có tên là Thi ca. Cho dù con người ấy chỉ ghé tạm cõi trần với một sinh phận mong manh...
VĂN THÀNH LÊ
Một số bài thơ tiêu biểu của Phạm Hầu
Y Lan
Xuân về ca xúy ở dương gian
Âm điệu trong màu nắng mới sang
Trăm ngón hoa buông hình yểu điệu
Nhịp nhàng hương tỏa, dịu dàng lan...

Âm điệu reo vui với nắng đào
Sắc màu tươi đẹp chốn hoa lâu
Tuy nhiên trong cảnh sang xuân đó
Một cội cây xuân dáng điệu sầu

Lá thắm, từng dây, lá rủ hàng
Buồn là bản chất của Y Lan
Cái cây thi sĩ vô tình đã
Biên những dòng "thơ lá" bẽ bàng

Trời là trang giấy rộng như mơ
Ghi chép hồn cây, phải một tờ...
Khốn nỗi bao người lơ đãng quá
Vô tình không hiểu đó là thơ

Tôi đi làm bạn với cây kia
Hồn để song song chẳng gọi về
Cây mạnh, tôi xuân, buồn vẫn đắm
Mạnh, buồn ai bảo phải phân chia.

Lý tưởng
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân,
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần.
Một cột đèn cao mơ góa bụa,
Đường dài toan nối hận gian truân.
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận,
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu.
Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng,
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm.
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ.
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc,
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn.
Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện,
Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.
Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương trời.
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi.

Vọng Hải đài
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng bước gót vân hài.
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng Hải đài.
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu.
Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn, gió đêm tà,
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa.
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai,
Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

Chiều buồn
Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ
Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê
Cho điệu buồn man mác tự đâu về
Đưa ngọn cỏ theo chiều mây lặng lẽ

Cho tôi được nghiêng kề nàng thỏ thẻ
Vì lời yêu rên siết ẩn trong tôi
Chỉ khi buồn may mới thoáng qua thôi
Mà hương lệ đó là trang sổ quý

Buồn len lỏi trên đầu cây, thi vị
Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi
Tôi kề nàng môi chạy kiếm làn môi
Lời tôi lặn trên môi nàng rung động

Yêu đương đến tất cả chiều mơ mộng
Buồn nhẹ nhàng trong làn khói thu không
Buồn mơn man trên đầu tóc rối bòng
Và vơ vẩn bên đôi người vô tội

Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội
Kề vai nhau khi lệ với chiều, rơi
Khi giọt sương âu yếm nhỏ lên người
Nàng và tôi là hai dòng lệ nối.
Trích từ các nguồn: Hoàng Minh Nhân, Vẫy ngoài vô tận, NXB Thanh niên, 6-2001; báo Bạn Đường số 24, ngày 4 tháng 4 năm 1942; Tao đàn tạp chí, NXB Tân Dân, Hà Nội, 1939; Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007.

Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2018

Chợ Hòa Bình (Tân Bình 3), Đ.Trung, Điện Bàn, Quảng Nam



Bạn ah trước đây tại xóm Hòa Bình làng Đông Bàn có giếng Bốn Trụ (giếng hiện còn được làng gìn giữ trở thành di tích vật thể cổ).
Tại xóm Hòa Bình còn có chợ mang địa danh xóm, vừa qua bc xóm đã lập lại chợ này chỉ đông vài giờ từ sáng sớm, chợ nho nhỏ nhưng mua bán nhộn nhịp vs đa dạng hàng hóa... thực phẩm.

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2018

Văn từ phủ Điện Bàn - Văn thánh huyện Diên Phước xưa











Văn thánh huyện Diên Phước nay gọi Văn từ phủ Điện Bàn tọa lạc trên khuôn viên diện tích 4000 mét vuông ở làng Đông Bàn xưa.
Trước 1965 thuộc thôn 1, xã Phú Thọ - Khu Phù Kỳ, quận Điện Bàn sau 1975 thôn Nam Hà 1, xã Điện Trung - Gò Nổi, Điện Bàn, Quảng Nam.
Công trình tôn vinh sự học của  phủ Điện Bàn cũ được xây dựng từ tháng 3 Xuân Quý Sữu - 1853 (Tự Đức năm thứ VI) đến tháng 9 mùa Thu cùng năm là hoàn thành.
Bên trong lập dựng Thần tẩm, bên ngoài có bái đường, đông tây có hiên rộng, chu vi tường ngói, tổng thể văn miếu gồm ba gian hai chái.
Bên ngoài có cổng tam quan, tường bao bọc, trong sân bên trái xây miếu thờ bổn thần.
Văn thánh xưa qua chiến tranh chỉ còn đống gạch vụn, ba trong bốn tấm bia bằng chữ Hán được mang về từ Văn từ phủ, đặt trang trọng trong sân Bảo tàng Điện Bàn, tuy chữ đã bị phai mờ nhưng vẫn còn đọc được.
Theo bản dịch của nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Văn Lại (hiện ở phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng - ĐNCT) còn lưu trữ tại Bảo tàng thì những văn bia này được khắc dựng ở những thời điểm khác nhau.
Bia số 1:
Do ông Phạm Hữu Nghi, quan Hữu Tham tri Bộ Lễ sung Toản tu Quốc sử quán, khắc ngày 25 tháng giêng, năm Tự Đức thứ hai mươi sáu (1873), có nội dung:
Mùa Đông năm Tự Đức thứ IV (1851) cố Thái thú Nguyễn Văn Hiến (sau nhậm chức Phú Yên Tuyên vũ sứ) là gốc Quảng Trị báo: “Đây là một sự thịnh vượng của huyện ta, quý vị quân từ phải đi đầu, chịu hao tốn lương bổng mà làm cho nên việc”. Giới kỳ mục, tổng lý nghe thế hăng hái quyên góp tiền của, công sức một cách vui vẻ; bèn chọn đất Đông Bàn, tập trung vật liệu, thuê mướn nhân công khởi công xây dựng. Bên trong lập dựng Thần tẩm, bên ngoài có bái đường; đông tây có hiên rộng, chu vi làm tường ngói, phía trước có tam quan; bên trái xây miếu thờ thần.
Tháng 3 năm Quý Sửu (1853) năm Tự Đức thứ VI khởi công, đến mùa thu năm ấy thì xong. Từ khởi công đến lạc thành vừa 7 tháng. Người chọn đất là tiến sĩ Đỗ Thúc Tịnh ở Hòa Vang và cử nhân Nguyễn Thành Châu (sau làm Tri huyện Hòa Đa). Ông Châu còn làm Hội chủ điều hành việc thi công. Tú tài Phạm Phú Hanh,... Phạm Hữu Chánh giải quyết tiền nong. Vật tư thì có cử nhân Nguyễn Hiển Doãn (sau làm Thừa biện Bộ Lễ); các học trò Thân Đức Uy, Hồ Diêu... điểm xuyết kỷ cương cho nên việc là công của Thái thú vậy.
Phía trước đền là sông lớn, phía sau là núi Trà Kiệu, tuy không đồ sộ nhưng cũng có dáng vẻ tú lệ. Ôi! Đã ăn của đất tất phải báo đền, mãi mãi không dám quên nguồn... Việc kiến trúc này là bày trên một mảnh đất tôn kính vậy!
Và ta nay đã 200 năm gội thuần giáo hóa sâu dày, việc thành tựu ngày càng đông đảo, từ nay về sau hương hỏa ngàn thu, ngưỡng vọng núi cao thực làm cho người đời sau được phát đạt vô cùng vậy!.
Vậy nên ghi họ tên những viên quan, khoa tước trong Hội đã cúng ruộng, tiền như sau:
Đứng đầu danh sách là ba vị Tiến sĩ khoa Nhâm Dần Nguyễn Tường Phổ, Giáo thọ lãnh đốc học; Hội nguyên khoa Quý Mão Phạm Phú Thứ, Thượng thư Bộ Hộ trong Cơ mật viện; Đình nguyên Hoàng giáp khoa Ất Hợi, Đốc học Quảng Trị (khuyết tên). Kế đến là 4 Phó bảng là: Phạm Hữu Nghị, Hữu Tham tri Bộ Lễ; Nguyễn Tường Vĩnh, Tuần vũ Phú Yên; Nguyễn Duy Tự, Thị giảng học sĩ; Hoàng Diệu, Án sát Bắc Ninh; và 2 võ tiến sĩ, 36 cử nhân, trong đó có cử nhân khoa Quý Mão - Nguyễn Thành Ý; cử nhân khoa Đinh Mùi - Ông Ích Khiêm...
Bia số 2:
Ghi danh sách đóng góp tiền của quan chức, khoa bảng, ấm sinh... Trong đó có tên 2 vị trong “Ngũ phụng tề phi” khoa Mậu Tuất 1898 là Phạm Tuấn và Phạm Liệu. Mức đóng không theo bắt buộc và ghi chép liệt kê đầy đủ khi chi vật liệu xây dựng là 5.025 quan, chi công thợ các loại là 3.215 quan.
Bia số 3:
“Ở ngoài 9 châu còn có người ở, huống chi sống trong một nước văn hiến, học đạo của thánh nhân? Đạo trong thiên hạ không xưa nay. Nay hiến của cải, sức lực, người tuy một huyện, một làng mà lòng sùng bái còn xưa mãi vậy. Nay dùng chất để cho ngàn vạn năm sau người trong toàn cầu ai cũng bảo rằng: “lớn lao thay đạo của thánh nhân”.
Sau tiết lập Thu 5 ngày, tháng 7 năm Duy Tân thứ chín (1915).
Kính chữa: Hồng lô tự khanh Phạm Tuấn, đồng Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898).
Kính soạn: Đốc học hưu trí Phạm Như Xương, Nhị giáp Đình nguyên khoa Ất Hợi (1875)”.
Văn bia bị vỡ nhiều đoạn, trên bia có khắc tên 80 vị từ Tiến sĩ đến học sinh, trong đó có tên của Tiến sĩ khoa thi năm Giáp Thìn (1904) Trần Quý Cáp và danh sách hàng trăm thí sinh và hào lý của các xã thôn trong 11 tổng cúng tiền.
Riêng bia số 4 được phục dựng tại lăng mộ của cụ Phạm Phú Thứ.
Nội dung văn bia nói về công đức và công trạng của cụ (theo ý gia đình).
Những văn bia này là di tích vật thể quý giá.
Nhớ tiền nhân hiện nay (Mậu Tuất - 2018) thị xã Điện Bàn đang tổ chức phục dựng ngôi Văn từ phủ Điện Bàn trên nền đất xưa.
"Đất nào coi trọng việc học đất đó sẽ có nhân tài, thời nào coi trọng việc học thời đó sẽ được hậu thế trân trọng" Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần đã từng nói như vậy nên việc phục dựng Văn từ phủ là cần nhằm bảo tồn tính nhân văn, giá trị khoa học, văn hóa truyền thống của lịch sử đất học Điện Bàn - Quảng Nam.

HÒA VĂN
(Bài có trích dẫn từ Hồ sơ di tích Văn từ phủ Điện Bàn)

Truyện ngắn Hòa Văn: Về làng


http://baoquangnam.vn/van-hoa-van-nghe/truyen-ngan/201212/ve-lang-157437/