Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

Truyện ngắn Hòa Văn: Đời dế




Con tôi đứa học lớp 4 đứa học lớp 8. Phải nói ngoài chuyện học hành chăm chỉ, học tốt, thuộc loại Giỏi, còn lại mọi chuyện đều sưa sớt, chính vì vậy bị mẹ la mắng miết. Tôi để ý mới biết  do chúng mê đá dế quá.


Có chừng năm đến bảy hội viên, nhỏ tuổi nhất là cu Hiến con trai út của tôi, cao niên là ông Tư Hân đã trên sáu hai tuổi. Có thể tóm tắc tiêu chí mục đích hội bằng câu nói ngắn gọn đầy ý nghĩa của Ba San – một cây nuôi dế, đá dế giỏi nhất trong hội: “Thư giãn – Vui vẻ”.

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

NGUYỄN ĐỨC DŨNG: HÒA VĂN: Mai trời tạnh – Nắng xuân lên




         Ba bữa tết dọn lòng thanh thản, một bình trà nóng thơm mơ hồ khói trước mơ hồ hương đất trời tươi mới, cầm trên tay ấn phẩm thơ “Cho” NXB Văn nghệ - 2008 (*) của Hòa Văn “người cùng quê” đẹp, đáng yêu và cũng đáng suy tư từ cái hình bìa đến tên tập sách đã là điều trân trọng.

          Cảm nhận riêng của tôi, tôi vẫn yêu thích hơn những bài thơ "gần, mộc mạc và thiệt tình" của anh. Chính điều này mới "Hòa Văn" hơn, mới rõ ra cái “văn là người” của tác giả và cũng theo yêu thích riêng với tôi, anh thành công hơn ở cách viết này.

          Trước tiên là bài “Thơ từ” Nó hiền và thân quen với cách cảm cách nghĩ của số đông bà con ta. "Thơ" xuất phát "từ" những gần gụi ấy, như là ca dao, như là hát ru bên nôi bao thế hệ trẻ thơ sau lẩn khuất tre làng

                                      " Thơ từ gốc rạ bay lên

                                                         Gặp cơn mưa xuống làm nên đồng vàng...”

                                                                                           (Thơ từ)

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Vu Lan nhớ mẹ ...



Di ảnh Mẹ



HÒA VĂN

Chiều nay ngồi lơ đãng nghĩ ngợi... và trong tâm trạng ấy tôi lẳng lặng nghe từng hồi chuông vọng lại từ một ngôi chùa làng cách nhà trên năm trăm mét. Thế là mẹ ơi! Mẹ đã về cõi Tịnh độ một năm rồi!.
Mới Vu Lan năm trước con còn mẹ. Con tự hào vui sướng nhận đoá hoa hồng tươi tắn do các huynh đệ ở chùa gắn lên ngực áo con sau đó khi về nhà con đã tặng mẹ đoá hoa ấy mẹ nói: “Hoa đẹp quá!”. Rồi mẹ nở nụ cười tươi tặng con!. Mà Vu Lan nầy Vu Lan đầu tiên con thật sự vắng mẹ thật rồi! 

Trong tâm trạng như vậy tôi bật máy nối mạng gặp bài thơ có nhan đề: Mùa Vu Lan không mẹ của tác giả Nguyễn Điệp (NĐ) đăng trên trang chủ yume.vn.
Bài thơ đem đến cho tôi cảm xúc khá mạnh. Ở nhà một mình tôi bật khóc!.

“Em đang rất buồn có phải thế không em?
Vu Lan đến mà Mẹ không còn nữa”
 
Câu thơ đầu tiên trong số 16 câu thơ của bài thơ là câu hỏi?. Không phải!. Đây là tiếng lòng của tác giả bài thơ chia sẻ nỗi niềm “Mẹ không còn nữa” với cô bạn gái hay em gái?. Dù cô bạn hay em gái câu thơ cũng đạt độ chín!. Không thể viết hay hơn được.

“Em đang rất buồn có phải thế không em?
Vu Lan đến mà Mẹ không còn nữa
Bao bạn bè cùng trang cùng lứa
Đang xum vầy bên Mẹ bên Cha”
 
Câu thơ kế tiếp đẩy tứ thơ lên khiến cho “em” thật sự “rất rất buồn” chứ không còn có “rất buồn” “không em?” nữa.
Giống như tôi bây giờ vậy. 

“Vu Lan này xin đặt một nhành hoa
Bên di ảnh của người đã khuất
Người mà trong đời em yêu nhất
Nén hương thơm sao chưa thấy người về!”
 
Vâng NĐ! tôi đã làm đúng như câu thơ anh viết. “Bên di ảnh” “người mà trong đời (tôi) yêu nhất”  tôi thắp ba “nén” nhang khói hương và “hương thơm”  nhẹ nhàng bay bay theo gió thu, loan toả dìu dịu  mà “sao chưa thấy người về!”.
 
Và rất đúng: 

“Có lẽ giờ lòng em rất tái tê
Cái mất đi không dễ gì bù đắp
Chỉ có ai trong cuộc đời đã gặp
Mới hiểu và thương cảm cùng em”
 
Tôi là người NĐ viết trong khổ thơ, câu thơ nầy đó!. “Giờ lòng (tôi) rất tái tê”  trước nỗi mất mát vô cùng lớn. Lớn nhất trong cuộc đời nầy với tôi... “Không” có gì... “Không dễ”  lấy điều “gì”  cái “gì” “bù đắp” được!. “Chỉ có ai trong cuộc đời đã gặp mới hiểu và thương cảm cùng (tôi)”.
Cảm ơn tác giả đã viết lên nỗi lòng của những người con mất mẹ!. Nhất là lại đọc bài thơ đúng vào thời điểm Vu Lan thắng hội nầy, bài thơ càng tăng thêm nhiều cảm xúc thật sự sâu lắng...
Cảm ơn sự đồng cảm và chia sẽ thiệt lòng của tác giả trong đoạn thơ cuối cùng: 

“Có những miền ta chưa dám đặt tên
Chỉ thấy vắng những chiều em không đến
Vu Lan này xin dành niềm cảm mến
Chúc một ngày em sẽ bình yên!”.
 
Chỉ cần đổi từ “em” ai có cùng nỗi niềm sẽ là tôi là anh!...
“Thơ nói đến những điều cao xa hay gần gũi không quan trọng bằng nói được nỗi lòng ta và nói thay cho bao nỗi lòng đồng điệu khác.”.

                                                         Hòa Văn
                                                (Đêm trước ngày lễ Vu Lan 2012)
  
http://newvietart.com/index3.5866.html


Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

HÀ NỘI NGÀY VỀ - Nhạc: Trần Văn Chính - Lời: Hòa Văn







                                 Bài đã đăng trên tạp chí Đất Quảng số 10/ 2012        

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

Truyện ngắn Hòa Văn: TRUYỆN VIẾT TRONG PHÒNG TẮM...







Thi có thói quen mỗi lần tắm cả tiếng đồng hồ. Tính ra thực tắm chỉ mấy mươi phút, thời gian còn lại anh nằm trong bồn nước i-nox viết... văn.

Đầu đề của truyện đang viết tính tới tính lui mấy bữa. Ban đầu có ý đặt là Con sâu đo. Vì lúc nào Thi tắm cũng có con sâu đo sống quanh quẩn ở đâu đó trên các cành cây chè tàu trồng làm hàng rào kiểng sát tường phòng tắm bò vào. Hôm nay cũng vậy khi Thi mới bật ngọn đèn, mở vòi nước kêu rổn rảng chuẩn bị tắm “cô” sâu đo thong thả bò men theo cạnh của hai bờ tường phía mặt đất lên hướng trần phòng.


Thi nằm ngửa thoải mái mắt nhìn bụng nghĩ: “Bò kiểu như sâu đo biết mấy ngày mới ra khỏi nơi đây?”. Nghĩ xong Thi lại tự trả lời: “ Sớm muộn!. Nó làm gì có thời gian?. Mà sớm với muộn!”. Nhưng lại tự hỏi tiếp: “Chứ nó có ý định đi về đâu?. Mục đích?”.

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Truyện ngắn Hòa Văn: DỊ HỒN




Mẫn Mẫn về tới nhà đã hơn hai mươi mốt giờ, rón rén đi ngang qua phòng ngủ của mẹ thấy ánh sáng đèn trong phòng lờ mờ... định bụng dòm vào khe cửa xem thử mẹ có ngủ yên giấc không nhưng lại thôi.
 
Cơn buồn ngủ cộng với có chút rượu mừng sinh nhật của người bạn nữ thân thiết dù chỉ là rượu vang thôi thế mà sao vẫn thấy hay hay thế nào ấy. Bảo say rượu thì chưa vì chừng năm ly ăn nhằm gì với cơ thể đẫy đà của cô con gái hai mươi bốn tuổi. Mẫn Mẫn vịn thanh cầu thang lên tầng hai.

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

TRUYỆN NGẮN HÒA VĂN: THẾ LÍNH HOÀNG SA






“Hoàng Sa trời nước mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về
Hoàng Sa mây nước bốn bề
Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa.”

(Câu ca dân gian ở Quảng Ngãi)

Ngắm đi ngắm lại người nộm mới làm xong, Thinh gật gật đầu tỏ vẻ ưng bụng. Đây là nộm tượng trưng ông nội của Thinh, một ngư dân gần ba mươi tuổi, dáng người vạm vỡ.
Đợt tuyển quân binh đội Hoàng Sa năm ấy, ông nội của Thinh được tuyển mộ. Ngặt nỗi nhà đơn chiếc, bà nội sinh cha của Thinh tuổi mới thôi nôi, có người bày biểu ông nội làm đơn xin hoản đi. Ông lắc đầu nói không nên.

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

THƠ VĂN CÔNG HÙNG, PHAN HOÀNG, NGUYỄN TAM MỸ, PHẠM VÂN ANH, PHẠM THÀNH GIANG, HÒA VĂN: ƯỚC NGUYỆN!




VĂN CÔNG HÙNG
TRƯỜNG SA
(Trích trường ca)

…Ai đặt tên cây là phong ba         
nghe lên đã vọng vang bão táp         
gió mặt trời lấm láp         
tan hoang những giấc mơ thánh thiện
chẻ tơi bời giấc ngủ
giã đêm thắc thỏm phập phồng
những đêm dài không ngủ         
nhà mà có phải nhà đâu
lênh vênh thủy triều lên xuống
ngập nghênh chân sóng chênh chao ngày trắng mắt     
xa mờ khơi...


Trường Sa giờ này tôi mới đến
dẫu từ thuở vỡ lòng đã biết đọc Trường Sa
tàu nhổ neo bóng em mờ phía đất
điện thoại tắt rồi thanh thản chiều nay
ở đất liền mình phụ thuộc tiện nghi tưởng như thiếu tiện nghi sẽ chết
nhưng chiều nay nhẹ nhõm đến tận cùng
biển xanh trời xanh sóng trắng
mình xanh nhau ưỡn ngực đón gió trời
những cơn gió lang thang đẩy tàu đi tới
Trường Sa

ra biển thấy biển thanh bình
nỗi nhớ đất liền nhớ em trở nên nhỏ nhoi quá thể
dẫu vẫn biết lòng biển kia không hề lặng lẽ
và cái dáng lầm lũi mũi tàu như xót muối vào đêm
tôi vẫn ước giá mà được tan trong biển
để êm đềm trong suốt thuở hai mươi…

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

Thơ HÒA VĂN: CHÂN LÝ TẤT THẮNG!







Đất nước 4000 năm
chưa bao giờ khuất phục giặc ngoại xâm
Đất nước sinh ra
những Người con bất tử
Bà Triệu Bà Trưng, Thánh Gióng…
Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…
Đất nước sinh huyền thoại và trang sử
Rạng ngời Việt Nam!

Hởi lũ xâm lăng!
Chớ vin “nước lớn”
Chớ cậy “lộng ngôn”
Làm điều càn quấy! (*)
Nước non Việt muôn năm là non nước Việt!

“Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư?”(**)

Đất nước 4000 năm
Đượm bao lòng
Yêu nước
và yêu chuộng hòa bình công lý
Chẳng lẽ lặng im
Trước cường quyền!

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

NHÂN VẬT KHÔNG BIẾT NÓI DỐI II



Truyện ngắn Hòa Văn
 
Truyện ngắn Nhân vật không biết nói dối của tôi, sau khi đăng báo đâu được một tuần, không rõ ai gởi biếu mà bà vợ anh thợ đan nhà gần bên có một tờ. Truyện đăng ở trang 5, có bức ký họa bốn màu vẽ anh thợ đan ngồi chăm chỉ làm việc cùng nhiều sản phẩm thúng mủng, rổ rá... Báo in đẹp còn thơm phức mùi giấy mực. 

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Truyện ngắn HÒA VĂN: PHÍA TRƯỚC LÀ GÌ?






1.
"Phía trước là gì?".
Câu hỏi nầy lặp đi lặp lại trong đầu bà Chánh Xinh. Gọi bà Chánh vì bà là chánh thất của ông Chánh tổng Thượng, một chức sắc thuộc triều đình ngày xưa làm nhiệm vụ coi sóc một tổng. So với quan tứ trụ ở kinh diên thì chẳng đâu vào đâu nhưng đem đặt ở làng; ở phủ và ở tổng thì to lắm. Vợ của Chánh tổng đương nhiên được bàn dân thiên hạ kêu bà Chánh. Xinh là tên con gái cả của bà chứ không phải tên tục, tức là tên cha mẹ đặt khi đầy tháng. Tới giờ chính bà Chánh không nhớ nỗi cái tục danh ấy nữa mà nhớ làm chi khi đã có cái tên Chánh Xinh vừa hay vừa đầy uy lực!.

EBOOK VIỆT VĂN MỚI NGUYỆT SAN SỐ 9

                                                                                                                     
               

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

NGƯNG THU "ĐI QUA MÙA GIÓ THỔI"





Cách đây hai năm Ngưng Thu gởi đến mail của tôi một số chùm thơ.

Tôi đọc ngay và cảm nhận ở người yêu thơ Ngưng Thu nhiều bất ngờ thi vị, nhiều bài đã đăng lên trang Ruột Rà và trang Hòa Văn chia sẻ cùng bạn đọc. 

Như bài Về say mùa lá rụng (giờ in trong tập thơ trang 81):

“Thoảng tưởng đời không là cát bụi/ hình như gió rãi những vòng xoay/ nắng còn níu giữ màu hư ảo/ cuối đường thảng thốt chiếc thu bay.”

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

GIẾNG NƯỚC ĐÔNG BÀN


HÒA VĂN
Theo “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An, làng Đông Bàn khai cơ lập nghiệp sớm trong 66 xã hiệu thuộc phủ Điện Bàn cũ (Triệu Phong, Thuận Hoá).


Chuyện xưa kể rằng, lúc bấy giờ nơi đây (Gò Nổi) dân cư thưa thớt, đất trời hoang sơ, núi rừng hiểm trở, các loài thú dữ, chim muông rình rập bao quanh. Tuy nhiên, đất đai màu mỡ, khai khẩn đến đâu gieo trồng đến đó hoa lợi tốt tươi mang lại lương thực, thực phẩm dồi dào. Hằng năm lũ lụt bồi đắp phù sa nên mùa màng thêm bội thu. Nguồn nước sinh hoạt có sông Thu Bồn, ngòi Đông Bàn nên không cần giếng khơi. Song, có một điều sau hàng trăm năm dân làng vào đây lập làng kể từ ngày vua Lê Thánh Tông bình Chiêm thắng lợi (Hồng Đức nhị niên 1471) nhưng dân cư làng Đông Bàn không phát triển mấy, lòng người không yên, có người định bỏ đi tìm vùng đất mới. Lũ lụt mỗi năm mỗi to và dữ dằn hơn như muốn cuốn phăng tất cả... Nước ngập xóm Nam Dương, Tây Hà, nước cuồn cuộn chảy xiết ngập xóm Tây Xuyên, Bắc Tân, Đông Hà, Hòa Bình, đến gần cuối làng, con nước xoáy mạnh xói lở nhiều năm thành bàu rộng đến trên ba mẫu đất (nay còn gọi cánh đồng bàu Lở). Dân làng bàn tính phương cách chống chọi lại với thiên tai, có người ý kiến tốt nhất nên dời khu dân cư ra xa nơi lũ xoáy để tránh tai hoạ. Bàn tới tính lui chưa có kế sách nào khả thi thì vào một đêm các cụ cao niên trong làng ngủ mơ thấy có một vị trưởng lão người quắc thước, râu tóc bạc phơ mách bảo: Dân làng hãy đào ở ngay rốn của vùng nước xoáy ấy một giếng nước mang hình trời đất vừa để lấy nước sinh hoạt, vừa khiến lũ sẽ không xoáy không gây xói lở nữa, đồng thời làng xóm sẽ hanh thông nhiều mặt!.

Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

TÌNH THƯƠNG MẾN LÀ QÙA TẶNG

Truyện ngắn Hòa Văn

 
Buổi sáng ở thị trấn Vĩnh Điện mọi sự việc bình thường. Một góc của ngã ba - đường đi Hội An và Quốc lộ 1A - có một quán cà phê lúc nào cũng đông người, họ đến vừa thư giản vừa nhâm nhi từng ngụm thức uống vị đăng đắng, nếu không có chẳng chết ai nhưng thiếu nó vào buổi sáng nhiều người ví như hai người đang yêu sống thiếu nhau. Trừ trường hợp ốm đau và bận công việc Tính, Thi và Tiễn không bỏ sót bữa nào. Ba người thường xuyên ngồi chung ở chiếc bàn bằng đá kê nơi đẹp nhất quán, từ đây có thể nhìn thấy mọi sự việc xảy ra ở đây.
 
Choảng!... Tiếng va chạm mạnh bất ngờ xảy ra giữa hai người đi xe máy ngược chiều nhau, chỉ cách quán cà phê ngã ba nầy trên năm chục mét. Sau khi dựng lại chiếc xe ga Vision đời mới vừa mua, anh thanh niên điển trai đang giận dữ, đứng chống nạnh, nói to và gằn từng tiếng:          
  
 - Không... có... mắt... à!.
 
Cô gái trẻ còn đang tư thế nửa ngồi nửa quỳ trên mặt đường, mặt nhăn nhó tỏ vẻ đau đớn, lúng túng nhìn người thanh niên mà cô vừa đụng xe, ý như cần sự giúp đỡ điều gì. Chiếc xe Honda Wave anh pha của cô gái nằm nghiêng ngã sát lề đường. Nhiều người đi trên đường dừng xe ghé lại xem thử chuyện gì rồi đi tiếp.
Cô gái lí nhí:
 
  - Em xin lỗi!. Anh thanh niên chưa nguôi giận:
 
  - Lỗi!. Phải!. Cô giết người trong gang tấc!.
 
Rồi bỏ đi.
 
Một người đi đường trạc tuổi trên sáu mươi, dìu cô đứng dậy.
Cô rối rít cảm ơn. Người sáu mươi tuổi nói cho cô biết tên của anh thanh niên,và có ý gọi anh thanh niên quay lại. Cô gái nói trong nước mắt:
 
  - Chắc con không hề gì!. Thôi để ảnh đi!. Con cảm ơn bác!.
 
Nếu thiếu chút may mắn sự việc khó lường, Nói cho công bằng lỗi có thể do cô gái song chính hành vi chạy xe quá nhanh và lạng lách của anh thanh niên, làm cho cô gái hoảng sợ lệch tay lái gây ra va chạm. Tính, Thi và Tiễn ngồi không xa vụ việc họ vẫn thanh thản trò chuyện... sau đó lại sốt sắng bàn luận đúng sai, người bênh anh thanh niên, người bênh cô gái, người nói cả hai anh thanh niên và cô gái đều có đúng có sai. Có điều họ không biết vài giờ sau cô gái phát hiện chân trái bị gãy, hiện đang nằm điều trị ở bệnh viện Điện Bàn. Nơi cô gái vừa chân ướt chân ráo vào làm việc tại khoa nội mới hơn tuần lễ.
 
Hồi còn ngồi trên giảng đường trường Đại học Y khoa Huế, cô gái – nữ bác sĩ tương lai - ấp ủ nhiều điều tốt đẹp. Nào là mình hứa sẽ thực hiện đầy đủ y đức, ân cần chu đáo cho mọi người bệnh không kể nghèo giàu sang hèn!. Nào là nhất định không tự tư tự lợi trên nỗi khổ của bệnh nhân! Nữ bác sĩ suy nghĩ mung lung...
 
  - Con ăn cháo nghe con!.
 
Mẹ của nữ bác sĩ mua cà mèn cháo từ ngoài cổng bệnh viện vừa bước vào buồng bệnh nói như thế.
 
Nữ bác sĩ gật mình, thẫn thờ nhìn mẹ rồi cất tiếng ngoan ngoãn “dạ” như hồi còn trẻ thơ!.
Nghe tin con bị tai nạn bà Cau, hốt hoảng bỏ cả chuyện gặt lúa vụ Hè thu, khăn gói đi một mạch từ Hòa Tiến, xã ven thành phố Đà Nẵng, đến bệnh viện thăm và ở lại nuôi con, giao công việc đồng áng ở nhà cho chồng và con trai út.
 
Bác sĩ Nguyễn, phó Giám đốc bệnh viện tới thăm, sau khi chào bà Cau, bác sĩ Nguyễn nói với bác sĩ Vân – Vân là tên cô gái - bác sĩ -:
 
  - Bác sĩ Vân khoẻ hơn chưa?.
 
Bác sĩ Vân vui vẻ:
 
  - Dạ em khoẻ bác ạ!
 
Bác sĩ Nguyễn động viên:
 
  - Vết thương của cô gãy kín, nhanh khỏi và nhanh trở lại làm việc bình thường trong vài tuần nữa.
 
Bà Cau nhanh nhẹn trả lời:
 
  - Dạ tôi sẽ chăm sóc tốt để cháu sớm đi làm!.
 
Bác sĩ Nguyễn gật đầu vui vẻ đồng ý.

                         
Bác sĩ Vân vừa dắt xe vào nhà xe, vừa suy ngẫm: “Tình thương mến là quà tặng của tự nhiên của người với người”, câu văn mới đọc trong một truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng. Sáng nay khi đi gần tới bệnh viện trời bất chợt đổ mưa, cơn mưa nhẹ chớm xuân chỉ vừa ươn ướt chiếc áo len màu cánh sen, người yêu mua tặng sau một tuần đi công tác Hà Nội về. Tình yêu của bác sĩ Vân và bác sĩ Trường bắt đầu từ “Hội nghị bác sĩ  thực hiện y đức và y tài của người thầy thuốc” tại thành phố Tam Kỳ. Tuy mỗi người công tác hai nơi khác nhau nhưng cùng ngành cùng trong tỉnh nên bà Cau dù chưa nói ra nhưng thâm tâm rất ưng ý. Bác sĩ Vân định thứ bảy tuần nầy nhân dịp gần Tết Nguyên đán, sẽ mời người yêu về thăm nhà và chính thức giới thiệu với ba mẹ và em út. 

Khúc nhạc chờ vui tươi quen thuộc nổi lên, bác sĩ Vân biết bác sĩ Trường gọi, vội cầm  máy điện thoại nghe và trả lời:
 
  - Dạ! dạ! em đang ở bệnh viện.
 
  - ...
 
  -Dạ! dạ! em mặc vừa vặn, em thích !. À! mà sao anh biết mà chọn màu giỏi thế!.
 
  - ...
 
  -Dạ thứ bảy tuần nầy, được không anh?.
 
  - ...
 
  - Dạ như thế anh nhé!. Dạ! bye anh!.
 
Mới quen Vân hơn một năm nay nhưng Trường hiểu rất rỏ cô người yêu của mình, kể cả gia cảnh, sở thích, nhất là cách ăn mặc giản dị hợp với vóc dáng mảnh dẻ xinh xắn. Ngay cả việc làm đẹp Vân cũng không cầu kỳ chỉ phơn phớt son phấn vừa đủ tôn vẻ đẹp hồn nhiên mà thôi. Vân kể hồi học trường Trung học Hòa Vang, vừa là cây giỏi toán nhất nhì trong khối lớp, vừa rất ham thích văn chương, nhiều bài văn, bài thơ của Vân đượm tình yêu quê, yêu lứa tuổi học trò trong sáng, đăng trên tạp chí Non Nước, Đất Quảng, Tuổi Ngọc, Áo Trắng... Bởi vậy Trường hay đùa ghẹo Vân là bác sĩ của mộng mơ!. Vân mỉm cười ý vị nhớ lại buổi picnic đằm thắm và vui hôm chủ nhật tuần rồi ở bãi biển Cửa Đợi, Hội An. Nhớ hương vị béo thơm ngầy ngậy, đặc trưng của món Cao Lầu chỉ có thưởng thức ở Hội An mới ngon tuyệt như vậy. 
 
  - Thưa bác sĩ. Khoa nội mời bác sĩ đi hội chẩn.
  
 Lời nói của cô y tá làm bác sĩ Vân chợt tỉnh sau mấy phút lơ đãng.
 
Hội chẩn xong bác sĩ Vân đắn đo mãi. Người bệnh trong ca phẫu thuật lại là anh chàng thanh niên có sự va chạm với mình cách đây không lâu tại ngã ba Vĩnh Điện, có nên là bác sĩ phẫu thuật chính ca nầy không? Câu hỏi trở đi trở lại trong đầu, hay là lên gặp Ban giám đốc nói rỏ sự việc để khoa phân công bác sĩ khác đảm nhận phẫu thuật cho anh ta.
 
Trong y phục áo Blu trắng, đeo khẩu trang kín gần nửa khuôn mặt trái xoan, đứng bên giường bệnh của anh thanh niên, với cả sự hiền dịu bác sĩ Vân hỏi:
 
  - Anh bị đau dữ dội như thế nầy bao lâu rồi?.
 
  - Dạ! dạ! ngày hôm qua.
 
Anh nói nhát gừng và tỏ vẻ yếu ớt. Chị vợ của anh cho biết, anh đau một ngày hôm qua, lúc đầu chỉ râm râm, uống thuốc giảm đau đỡ bớt, đi đến cơ quan bình thường, sáng nay đau quá, chị đưa anh đến đây cấp cứu.
Do người bệnh đến bệnh viện trễ quá, kíp mổ của bác sĩ Vân phải cật lực làm việc, không chỉ thời gian kéo dài hơn gấp đôi so với các ca phẫu thuật ruột thừa bình thường mà mức độ nguy cấp cao, rất may mọi chuyện tốt đẹp. Ca phẫu thuật thành công.
 
Gần đến ngày xuất viện anh thanh niên mới rõ mọi chuyện và điều đặc biệt đáng nói hơn nữa là chính cô gái - bác sĩ, sẽ là dâu của bác ruột anh. Bác sĩ Vân rất vui khi thầm nghĩ  “Tình thương mến là quà tặng của tự nhiên của người với người”
                                                                                                                                          H.V

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

NỖI NHỚ...



    Truyện ngắn HÒA VĂN




Mẹ nói những chuyện về đứa con trai của mẹ là có thật. Tôi lặng lẽ ghi chép tất cả không có một lời bình luận hoặc thêm thắt nào.



Ngày 17 tháng 02 năm 1979(1)

Mẹ kính yêu!

Con đã đặt chân lên mảnh đất...  – Mảnh đất mà lúc nầy theo như chỉ huy bảo là của “địch” mẹ ạ!.

Đồi núi nhấp nhô, bình yên, đầy hoa sim tím... Phía bên kia dãy núi có nhiều ngôi nhà, trong đó chắc chắn có trẻ thơ và người già. Giờ G sẽ phát lệnh tiến công, C của con đánh mũi trực diện. Qua điều nghiên của các trinh sát phía ấy không có đồn bót cũng chẳng có binh sĩ chỉ có đâu mười dân quân trang bị rất sơ sài thế mà con là quân chủ lực nên mẹ đừng lo gì!.

...

Con của mẹ

Lý...



Mẹ thẫn thờ nhìn ra sân vắng. Hôm giáp tết con mẹ về mang theo quà tết của đơn vị tặng mẹ, đang sửa soạn mâm cơm đạm bạc mẹ nấu để tất niên nó vội vội vàng vàng đứng trước bàn thờ  chấp tay bái tiên tổ rồi bảo:



“Thưa mẹ đơn vị gọi con phải trả phép gấp!”.



Nhanh như sóc con mẹ khoác ba lô đi... Lá thư đây là hiện vật - lá thư cuối cùng của con mẹ viết từ nơi biên cương...

(Mẹ cho biết may mà... lá thư được một đồng đội cùng đơn vị nhặt được mang về trao cho mẹ). 

Mẹ nói:

“Vì Tổ quốc mẹ chẳng ngại con hy sinh nhưng...”

Tôi hỏi:

“Tại sao nhưng...”

Mẹ đáp:

“Cái nầy khó nói... Ờ... Các anh hay giả bộ!”

Vuốt vuốt cho lá thư thẳng thớm {thật ra lá thư có nhàu nát gì đâu?} nó được xếp tư vuông bỏ vào bọc nilon cất cẩn thận vào ống nứa đặt trên bàn thờ.

Đứng vịn bàn thờ lặng nhìn những làn hương khói nhẹ nhàng lan toả lên không trung, mẹ khấn vái gì đó thầm thầm trong miệng nhiều lắm, tôi chỉ nghe được câu cuối:

“Con sống khôn thác thiêng phò hộ cho mẹ được an lành!”

Mẹ thút thít khóc...

Rồi bảo:

“Anh cũng từng là bộ đội à! Bộ đội thì phải tuân lệnh cấp trên phải không?”

Mẹ từng nói với con trai mẹ chiến tranh không chỉ có trai tráng ra chiến trường đâu trong mỗi chiến sĩ ở cả hai bên đối nghịch nhau đều có bóng dáng của người mẹ. Chiến đấu hy sinh nói to lớn là vì Đất nước nhưng theo mẹ trong đó vì cả Mẹ nữa...

Tôi cặm cụi ghi chép.
Có lúc mẹ nói quá nhỏ hoặc quá nhanh tôi vẫn không có ý kiến bởi theo tôi chỉ cần một tiếng động khe khẽ chen vào dòng âm thanh mẹ đang phát ra từ tâm can thì... {tôi nghĩ như thế} thì... mẹ sẽ biến mất...!
Nhà bia tưởng niệm (cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc trải dài ở 6 tỉnh Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh -H.V) được xây dựng gần khu vực cầu Khánh Khê, nơi gắn với những chiến công vang dội của Sư đoàn 337 (V.N - H.V) - Ảnh: Nguyên Phong (TNO)

Khuya nay tôi lại gặp mẹ.
Mà không chỉ có một mình mẹ mà còn có một bà mẹ thứ hai. Hình như thấy tôi đang phân vân mẹ giới thiệu ngay:

“Cùng tiếp anh bây giờ có mẹ M mẹ của “kẻ địch” của con mẹ!”

Tôi định thần lấy mắt kiếng ra khỏi mắt dùng miếng vải nỉ lau sạch hai tròng mắt kính xong đeo trở lại.
Đúng! Mẹ nói đúng! Nhìn vóc dáng và kiểu ăn bận tôi biết mẹ là người nước tôi.
Tôi nhìn kỹ một chặp mới nói:

“Mẹ là mẹ của...”

“Chiến sĩ”

Mẹ M nhanh nhảu tiếp lời tôi như vậy.

“Thưa mẹ, con trai mẹ giờ còn trong quân ngũ?”

“Anh nói sao? Con trai tôi à! ...”

Không như hồi nãy nhanh nhảu giọng mẹ giờ chùng hẳn:

“... hy sinh tháng Hai năm 1979”

Bất giác như có một luồng không khí lạnh từ ngoài sân xâm nhập vào nhà toàn thân tôi lạnh toát!.
Cố điềm tĩnh tôi nhìn sang mẹ A {bà mẹ của phần đầu truyện ngắn nầy} mẹ A hiểu ngay điều tôi muốn hỏi”:

“Thì con trai tôi và con trai bả đánh nhau trên biên giới năm ấy đó mà!”

“Thưa mẹ con hiểu ra rồi thế giờ hai mẹ gặp nhau tại đây nơi biên cương để làm gì ạ?”

Lần nầy mẹ M nói:

“Chiến tranh đã lùi xa 35 năm khoảng thời gian đủ để hai người mẹ chúng tôi nhận ra bao điều...”

“Dạ!”.

Tôi không biết tại sao lại buột miệng “Dạ!” làm ngắt quãng lời tâm sự của mẹ.

Tôi nói:

“Xin lỗi mẹ!”

“Không sao!. Cái chính là anh cùng tôi và bà A sáng mai đi tìm thêm một lần nữa hài cốt của hai đứa con!”

“Con của hai mẹ “mất tích”?”

Mẹ A:

“Không rõ nhưng sau trận chiến con mẹ không trở về. Đơn vị của con mẹ báo “Chiến sĩ Lý... đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh "Vệ Quốc vĩ đại!”"

Mẹ M:

“Chỉ huy đơn vị của con mẹ ngày ấy có về tận nhà báo tin con trai mẹ đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc, cùng địa phương làm lễ truy điệu rất trang nghiêm trước bàn thờ trước di ảnh con của mẹ!. Mẹ nhớ lồng trong tiếng nhạc kèn hơi hùng tráng điếu văn nêu rõ con mẹ Lê Nam đã góp phần to lớn cùng toàn dân giành ‘thắng lợi rất oanh liệt và toàn diện đánh bại sáu trăm nghìn quân Trung Quốc xâm lược - Thêm một chiến công hiển hách ghi vào lịch sử chống xâm lược của Dân tộc ta’(2)”

Tôi không ghi thêm được điều gì vội thức dậy viết truyện ngắn nầy xong trước rạng sáng ngày... tháng 02 năm 2014.
                                                                                                                             H.V


---
(1): Ngày 17/2/1979, khởi đầu cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc trải dài ở 6 tỉnh Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh
(2): Chữ in nghiêng trong ‘...’: Theo báo Nhân Dân (V.N) số 9030 ngày thứ Ba 20/03/1979

Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

VỌNG HẢI ĐÀI



VỌNG HẢI ĐÀI
PHẠM HẦU 
Thi sĩ Phạm Hầu



Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Một phút dừng chân vọng hải đài

 

Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

 

Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn, gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa

 

Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa lài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có nhũng ai?

                                           P.H

-------------------
Ngô Minh

  Viếng thi sĩ Phạm Hầu    


                                            Mai Văn Hoan, Thanh Tùng và NM trước mộ thi sĩ Phạm Hầu


                    Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

                   Chẳng biết xa lòng có những ai ?

                             (Vọng Hải Đài- Phạm Hầu)

 


Góc nhân gian u hoài ai biết


Thi sĩ nằm như lá như sương


Chuông chùa Vạn Phước hằng đêm gọi


70 năm người lạc chốn xa lòng


 


Tôi men khói hương tìm viếng mộ


Chén rượu còn đủ ấm tái tê ?


Người ơi người khôn thiêng có biết


Câu thơ xưa còn ấm cõi đi về


 


Thi sĩ lạc loài như nước mắt


biền biệt quê hương mưa Huế gọi buồn


Trong đày ải mình trần tê ngọn lửa
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn (*)


 


Câu thơ sóng vỗ ngoài vô tận


Ươm cây đời đơm lộc giữa tim xanh


Người xa lòng làm sao quên được


Vẫn gọi về muôn vạn tri âm…


                                  Huế, Xuân Giáp Ngọ, 2014


---------------


  (*): Thơ Phạm Hầu

* Theo Blog ngominh 

 --------------

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Phạm Hầu (2 tháng 3 năm 1920 – 3 tháng 1 năm 1944) hay Phạm Hữu Hầu (tên ghi trong gia phả) là nhà thơ tiền chiến Việt Nam sinh ở Gò Nổi, làng Trừng Giang, (nay thôn Hòa Giang, xã Điện Trung – H.V ghi thêm), huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là con Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải đến chức Tổng đốc Nghệ An rồi Thượng thư Bộ binh dưới các triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải ĐịnhBảo Đại. Mẹ ông là bà Lê Thị Giảng, người Thanh Hoá.
Lúc nhỏ, ông học trường Quốc Học Huế, sau ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới (Quảng Bình) - Huế, thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng 1 năm 1944.
Kể về chuyến trở về của Phạm Hầu, sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2) viết: (Phát giác ông mất), người soát vé bắt buộc người thân đi theo phải đem xác ông xuống ga Truồi (Huế). Từ nơi đó, người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế rồi an táng trên một đồi nhỏ, sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao. Và để tiễn biệt một linh hồn cô đơn đi vào nơi yên nghỉ cuối cùng, người ta chỉ nghe đôi câu kinh, vài tiếng thút thít trong một chiều mưa gió thê lương...[1]
Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2), về hội họa, ông đã được tặng thưởng trong kỳ triển lãm hội họa tại Tokyo (Nhật Bản); về thơ, ông làm không nhiều (vỏn vẹn chỉ có khoảng 20 bài), thường đăng thơ trên các tạp chí Tao Đàn, Mùa gặt mới, Bạn đường...[1]
Năm 2001, nhà xuất bản Thanh Niên đã cho xuất bản thơ ông, tập thơ có tên Vẫy ngoài vô tận do Hoàng Minh Nhân biên soạn.

Quan niệm nghệ thuật

Trích bài viết của Phạm Hầu, được dẫn lại trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):
“Nếu một họa sĩ vẽ cô gái đẹp ấy y như thật, thì chỉ là thợ truyền thần giỏi mà thôi. Vì nhà truyền thần kia đi theo cảnh vật, làm nô lệ cảnh vật. Họ không phải là một nhà tư tưởng, một nhà sáng tạo. Mà trong địa hạt nghệ thuật, chỉ có sáng tạo mới là cái đẹp chân chính”.
“Cái quan niệm cho Nghệ thuật là một trò chơi không thể được nữa. Nhà nghệ sĩ không phải là một đứa trẻ vô tư trong trò chơi. Nghệ sĩ không thể không đau khổ, nhưng cái đau khổ ấy không phải là một thất vọng. Bởi đấy chính là một công việc giải phẫu mà nghệ sĩ phải chịu để cho ra đời một tác phẩm”.


Trích trong Thi nhân Việt Nam:
“...Ở đời có những người nói to bước vững. Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và con người ta tưởng không có gì là một người giàu vô vạn. Lòng người là một vọng hải đài, người chỉ việc đứng trên đài lòng mà ngắm: "Qua lại thiếu gì mây sớm gió chiều...”
Trích trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):
“Có thể nói, Phạm Hầu là hình ảnh kết tinh của một tâm hồn thơ và lòng yêu chuộng nghệ thuật. Tuy thơ ông rất ít, nhưng không thể lấy số lượng đánh giá trị thi nhân...Vì bài nào của ông cũng đều có một chiều sâu và chứa đựng một triết lý nhân sinh.
...Là một nghệ sĩ, tâm hồn ông thường hay rung cảm một cách bén nhạy...Mới chỉ trong cái tuổi đôi mươi mà ông đã quyết định mang theo bên mình một hoài bảo to lớn. Đấy là một cứu cánh toàn hảo, một tuyệt đích tình yêu, một tột cùng của nghệ thuật; nói gọn, đấy là cái Chân, Thiện, Mỹ vậy. Và có lẽ ít có người nghệ sĩ nào quá trân trọng bóng thiều quang như ông. Với ông, thời gian của kiếp đời mình cũng như vò nước. Từng giọt, từng giọt nhỏ dần…cho nên thi nhân không dám phung phí, luôn tự thúc giục mình trong công việc sáng tạo, để có thể lưu lại một cái gì trước tuổi 30.