Truyện ngắn Nhân
vật không biết nói dối của tôi, sau khi đăng báo đâu được một tuần, không rõ ai
gởi biếu mà bà vợ anh thợ đan nhà gần bên có một tờ. Truyện đăng ở trang 5, có
bức ký họa bốn màu vẽ anh thợ đan ngồi chăm chỉ làm việc cùng nhiều sản phẩm
thúng mủng, rổ rá... Báo in đẹp còn thơm phức mùi giấy mực.
Bà vợ anh thợ đan
đem đi giới thiệu cho nhiều người trong xóm Dốc Dài nầy cùng xem. Hôm đi dự đám
giỗ ba của một người bạn ở xóm trên tôi mới biết rõ sự việc, nhiều bà con trách
tôi “Ông là văn sĩ thế mà chẳng cho bà con làng xóm biết chi cả!”. Tôi hơi ngẩn
người, trả lời lí nhí “Dạ! Thì có viết từ lâu rồi!. Định bụng chỉ viết để đó
chứ có in ấn đâu!”. Hai Thản vặn vẹo “Răng báo đăng!”. “Thì...!”.
Thật ra, đây là một trong số nhiều truyện ngắn
của tôi, anh em xem thúc tôi nên gởi đăng, khi ở báo in khi trên mạng dù vậy
thâm tâm tôi có bao giờ nghĩ mình là văn nhân thi sĩ chi chi!. Có truyện viết
đã trên bốn chục năm nay đem ra đọc sao nhiều chi tiết nó giông giống chuyện
đang xảy ra, tỷ như truyện... viết về nỗi cơ cực của người nông dân cày sâu
cuốc bẫm. Cách đây gần nửa thế kỷ họ ước mơ có đất để cày, có tiến bộ khoa học
kỹ thuật để mùa màng bội thu, có máy móc làm thay cho sức lao động của con
người... cho đời sống đỡ vất vả, nay nhiều việc đồng áng có khá hơn song coi
vậy còn lắm việc vẫn còn trong mơ ước.
Không chỉ ở đây đâu mà theo chỗ tôi
biết ở nhiều làng khác cũng thế hay có tật “ăn đám giỗ nói chuyện làng”, họ nói
tất tần tật mọi chuyện “thượng vàng hạ cám”, có điều ai nói cứ nói ai nghe cứ
nghe cốt cho đỡ bớt cái lo trong bụng trong dạ chứ chẳng đâu vào đâu. Hai Thản
trước đây là cây chuyện làng, giờ tuổi tác xấp xỉ bảy mươi rồi, thành ra “ông
lão” chỉ ngồi lẳng lặng nghe, năm khi mười họa mới góp chuyện, mà khi ông lên
tiếng ai cũng lắng nghe, sau đó tuỳ theo từng nội dung... hoặc là cười rộ lên,
hoặc tấm tắc lưỡi nói “tội tội!!!”.
Hôm nay Hai Thản kể “Hồi xưa (thật
ra mới cách đây trên hai chục năm), cu Ráng từ Sài Gòn kêu điện thoại về báo
cho mẹ nó biết chừng ba tháng nữa nó sẽ đi nước ngoài. Nó xin mẹ đôi ba chỉ
vàng bỏ túi phòng hờ khi qua bên trời Tây nếu không may gặp khó khăn, có cái mà
xoay xở. Thiên địa! Bà Tư B nghe cu Ráng nói mà như nghe chuyện cổ tích!. Cu Ráng
là con của bà nhưng từ ngày nó biết chạy lon ton bà đã gởi cho nó ở với bác tận
Sài Gòn, nói công bằng cũng tại hoàn cảnh chứ bà Tư B không đành đoạn bỏ bê con
cái đâu!. Chỉ tội ba của nó hồi còn sống là người chồng tánh tình “Trương Phi”,
lại còn rượu chè be bét quanh năm suốt tháng, rượu vô lời ra do vậy cảnh ông
gây gổ, đánh đập, hành hạ vợ như cơm bữa! Nhiều phen thập tử nhất sinh vậy nên
bà Tư B phải chọn giải pháp sống ly thân. Cu Ráng lớn lên đẹp trai nhưng tính
khí lại không bình thường giống ba nó!.
*
Bé Bẵm hai mươi bốn tuổi, cô con gái
mà hơn nửa năm rồi hằng ngày cu Ráng chở đi làm giấy tờ đi diện con lai, một
hôm nói: “Anh Ráng ơi! Anh có muốn đi... với tôi không?”. Ráng đang mồ hôi mồ
kê gắng hết sức đạp cho chiếc xe xích lô vượt qua con dốc bà Son gần ngã ba Năm
Hiền nghe tiếng được tiếng mất như thế lấy làm lạ. Khi chở tới nhà bé Bẵm rồi
lúc nhận tiền công Ráng mới hỏi lại “Hồi nãy bé Bẵm nói gì Ráng nghe không
kịp!”. “Dạ em nói anh muốn đi không?”. “Mà đi đâu?”. “Dạ đi diện con lai!”. “Giỡn
chơi! Làm sao được!”. “Thì nếu anh muốn tuần nầy em bổ sung hồ sơ”.
Nói và làm. Rạng và Bẵm dẫn nhau đến
trụ sở phường được cấp giấy kết hôn và danh chính ngôn thuận thành vợ thành
chồng!. Bé Bẵm giao kèo “Qua bển là thôi vợ thôi chồng phần ai nấy sống thì mới
cho đi!”. Ráng “Ừ!”. Ráng biết thân phận mình lắm, Bẵm con lai da trắng nhỏ
nhắn thon thả như thế sức mấy mà làm vợ Ráng!.
Đó là nguyên nhân Ráng điện thoại về
xin mẹ chút ít tiền hoặc vàng để bỏ theo phòng thân.
Kể từ khi Ráng đi ra sống ở nước
ngoài, sự giận hờn mỗi ngày một lớn thêm đến nỗi không thư từ và không điện
thoại, mọi quan hệ với mẹ đều cắt đứt hết.
Hai Thản nói, phần của Ráng có cái
chưa đúng của Ráng nhưng chính cái tính quá kỹ lưỡng vốn có của bà Tư B đã gây
ra sự ngộ nhận. Theo bà Tư B cu Ráng tánh tình không bình thường khờ khạo như
thế làm chi có chuyện đi Tây đi Tàu, chắc nó lại nói phỉnh xin tiền để lêu lổng
thôi!. “Gần ba mươi tuổi trên đầu mà như con nít ở riết với bác chứ chẳng chịu
có vợ con nhà cửa chi hết!”. Bà Tư hay nói như vậy với mọi người nếu có ai đó
hỏi thăm Ráng. Kỳ thực ở đất Sài Gòn không dễ gì... khi Ráng đơn thân độc mã.
*
Tuổi chỉ gần bảy mươi, nhưng trông
bà Tư B người tiều tuỵ lắm!. Sống một thân một mình thui thủi vào ra cái nhà
không ra cái nhà, cái trại không ra cái trại. Nhiều người bảo bà Tư B có
con trai Việt kiều mà không biết tại sao sống thảm thương như thế!. Anh thợ đan
đề nghị tôi nghĩ cách gì giúp bà. Tôi nói “Chỉ có khi nào đứa con trai của bà
không còn giận vụ bà không cho nó vàng hồi xưa thì may ra...”. Anh thợ đan đề
nghị tiếp “Ông viết văn, hay là ông viết cho nó một lá thư đưa bà Tư B gởi qua,
nhiều khi...”. Gợi ý của anh thợ đan nghe có lý, đêm hôm đó tôi viết “Gởi cháu
Ráng. Chú là... ngày xưa... nay viết đôi dòng nầy gởi đến vợ chồng cháu.” Sau
khi nói quanh nói co nhiều chuyện để khêu gợi cái tâm cái tình vốn có sẵn trong
bất kỳ một con người nào có lương tri, tôi đặt vấn đề “Ráng ơi! Cháu có thể
quay lưng với ai cũng được nhưng với mẹ của cháu chú nghĩ không nên vì nếu lỡ
mẹ cháu nay mai chết vì cảnh bệnh tật, nghèo khó tiếng đời sẽ lưu truyền mãi và
khi biết đúng sai rồi lương tâm chịu sao thấu!. Người mẹ nào không thương yêu
hy sinh tất cả vì con cái! Mẹ cháu cũng vậy có điều ngày xưa mẹ cháu không hiểu
rõ việc của cháu, với lại thời gian cháu gọi điện về rồi đi... gấp rút quá,
phải chi ngày ấy cháu về gặp trực tiếp thì chú chắc giữa hai mẹ và con sẽ không
có sự hiểu lầm đáng tiếc như thế!.”. Lá thư của tôi được bỏ chung với lá thư do
chính bà Tư B viết nét chữ nguệch ngoạc không ngay hàng thẳng lối nhưng viết
trong tâm trạng đầy nước mắt. Theo bà chắc được chi vì bà đã viết nhiều lá thư
như thế nầy rồi “Mẹ biết mẹ không cho con chút ít vàng để con đi là không đúng.
Nay mẹ mong vợ chồng con thương mẹ mà...”.
*
Lần nầy vợ chồng Ráng về ở hơn một
tháng khi hay tin bà Tư B bị bệnh nặng. Nghe nói vợ Ráng người Việt kiều gốc
gác miền Trung biết lễ nghĩa, đã tác động khiến Ráng sớm quay về với bà Tư B.
Nhìn cách vợ chồng Ráng chăm nuôi mẹ ai cũng biết Ráng tỏ ra ân hận vô cùng vì
lâu nay để người mẹ sống quá đơn chiếc và khó khăn.
Số mạng lạ quá khi được con cháu
chăm nom tử tế lại là lúc bà Tư B ra đi...
Hình ảnh Ráng bưng bát nhang lặng lẽ
bước đi trước linh cữu bà Tư B khiến không ít bà con trong chòm xóm rơi nước
mắt!.
Anh thợ đan hôm đi đưa đám tang bà
Tư B nói “Trễ nhưng còn may! Nếu Ráng không kịp tỉnh ngộ, về chăm lo cho người
mẹ của mình chu đáo trong gần mấy năm cuối của cuộc đời bà thì chẳng biết điều
gì xảy ra!”.
Anh thợ đan - nhân vật của tôi trong
truyện ngắn Nhân vật không biết nói dối, không bao giờ so đo điều gì, anh nói
sau đám tang bà Tư B về tôi nên viết thêm một truyện ngắn. ./.
Hòa Văn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét