Nhà phê bình Đặng Tiến |
«Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời», là thế giới, là tâm giới, là thi giới của Lưu Trọng Lư. Nguồn ánh sáng trong trẻo ấy đã đến với con nai vàng ngơ ngác từ một buổi bình minh sơ khai của Thơ Mới, là tia nắng hạnh phúc, đồng thời cũng làm giới hạn nghệ thuật và sự nghiệp Lưu Trọng Lư.
Tưởng niệm 100 năm sinh
Lưu Trọng Lư (1912-1991)
Đặng Tiến
ĐÓA MỘNG ĐẦU
Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau
Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau.
Chờ anh dưới gốc sim già nhé
Em hái đưa anh đóa mộng đầu
(LTL)
«Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời», là thế giới, là tâm giới, là thi giới của Lưu Trọng Lư. Nguồn ánh sáng trong trẻo ấy đã đến với con nai vàng ngơ ngác từ một buổi bình minh sơ khai của Thơ Mới, là tia nắng hạnh phúc, đồng thời cũng làm giới hạn nghệ thuật và sự nghiệp Lưu Trọng Lư.
Là hạnh phúc, những bài thơ tuyệt vời của ông, khi vừa xuất hiện trên văn đàn, đã gặp ngay tri kỷ. Các nhà phê bình và sau họ là những nhà giáo, nhà soạn nhạc đã chọn và giới thiệu đúng những bài thơ hay, bình dị và trong sáng nhất, dễ thuộc nhất. Từ 1942, Vũ Ngọc Phan đã viết: « Có thể tóm tắt tất cả những ý thơ của Lưu Trọng Lư vào hai chữ tình và mộng »i. Tưởng chúng ta khó thêm thắt điều gì; và từ ấy đến nay vẫn chưa thấy ai thêm được điều gì. Hoài Thanh, bạn thân và sành thơ Lưu Trọng Lư, trong dăm trang đặc sắc cũng loanh quanh với ngần ấy ýii. Giới hạn là ở chỗ đó.
Việc còn lại, để tưởng niệm Lưu Trọng Lư, là thử phân tích hương tình và phấn mộng bàng bạc trong thơ ông và qui định biên giới của cõi tình và cõi mộng ấy.
NGƯỜI EM SẦU MỘNG
Thơ Lưu Trọng Lư là niềm hoài vọng mang mang hướng về dĩ vãng, về một nền văn hóa dân tộc và đông phương đang phôi pha trước làn sóng phương tây và hiện đại. Một tàn phai, không cưỡng lại được, không hò hẹn hồi sinh.
Niềm tiếc nuối khôn nguôi, khu biệt thơ văn Lưu Trọng Lư, và đánh dấu một thời đại, từ « mấy chùm trước dậu, hoa năm ngoái » trong Nguyễn Khuyến, đến « sông kia rày đã nên đồng » ở Trần Tế Xương, và gần hơn nữa, ở một Thế Lữ gửi lòng « theo nước trang giang ấy, sớm tối theo chàng đến Phúc Châu », một Xuân Diệu « trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi » đến Vũ Hoàng Chương « nghe hồn ly phụ khóc trên tơ » hay Huy Cận, nhất là Huy Cận « phất phơ buồn tự thời xưa thổi về ». Ấy là những người tân học đã cổ vũ cho thơ mới mạnh mẽ nhất.
Văn xuôi cũng vậy; trước Đoạn tuyệt kêu gào cải cách, Nhất Linh đã từng lưu luyến với Nho phong, Người quay tơ, Khái Hưng trước Nửa chừng xuân còn tần ngần với Hồn bướm mơ tiên. Một thế hệ u hoài về một thời vang bóng.
Lưu Trọng Lư khác với các nhà thơ đồng lứa ở chỗ ông không mơ mộng được cái gì khác ngoài dĩ vãng của dân tộc, trong khi Xuân Diệu còn có lúc Giục giã, Huy Cận còn lo lắng cho Mai sau; họ còn sống trong hiện tại, sống cho tương lai. Con người thời đó, ý thức khá rõ những thay đổi chung quanh, như Hoài Thanh đã ghi từ 1941 « một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ và có ngày ta sẽ thấy thay đổi cả quan niệm của phương Đông (…) Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui của ngày trước, buồn cái buồn ngày trước…»; Hoài Thanh dựa vào lời Lưu Trọng Lư, trong một buổi diễn thuyết tại Quy Nhơn, 1934: « Các cụ ta ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt… Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya; ta nao nao vì tiếng gà lúc đứng ngọ…» iii. Nhưng màu xanh nhạt, tiếng gà trưa rồi cũng tàn phai theo một nền văn minh đang lỡ bước sang ngang. Lưu Trọng Lư chấp nhận khó khăn những đổi thay của cuộc sống: « Tôi vừa đau đớn vừa căm giận khi nghĩ đến lớp đàn bà lèo loẹt kia đã dám kiêu hãnh thay thế lớp đàn bà cũ kỹ ấy – những người đàn bà thùy mị với những bộ răng đen nhánh. Những người đàn bà ngày nay để răng trắng (…) Nhưng tôi biết nói thế nào khi người ta gọi đó là sự tiến bộ. » Ông nuối tiếc « những đồng tiền kêu lẻng kẻng một cách vui vẻ biết bao! Chúng ta ngày nay ở vào cái thời kỳ mà đồng bạc chỉ làm bằng giấy (…) »; và tiếng lục lạc của tuổi thơ « Nhưng trời ơi, làm sao tôi quên được những tràng lục lạc ấy.. Không phải là tiếng lục lạc cột ở chân một đứa bé, mà là tiếng rung của một thời, của một thế giới đã sụp đổ, đã đổ rồi »iv. Hàm răng trắng, đồng bạc giấy, là những thay đổi tối thiểu mà một người toàn tân học như Lưu Trọng Lư năm 1941 còn không chấp nhận, nói chi đến những biến đổi thâm trầm hơn, trong phong tục, trong tư tưởng hay tình cảm?
Lưu Trọng Lư mơ mộng nhưng không hão huyền. Mới đây, ông có tâm sự « trong đời, có một câu thơ nào, hình như đều do đời gợi ý. Tuy vậy, cũng có những bài thơ đôi khi một mình ngâm lại vẫn không biết từ đâu tới »v. Hoài Thanh nhầm và ví dụ không đúng về ông: « thường ta chỉ thấy những cảnh rất mơ hồ, không có ở thời nay, mà cũng không có ở thời nào. Hãy đọc bài Thơ sầu rụng vi:
Vầng trăng từ độ lên ngôi,
Năm năm bến cũ, em ngồi quay tơ
Để tóc vướng vần thơ sầu rụng,
Mái tóc buồn, thơ cũng buồn theo.
Năm năm tiếng lụa xe đều,
Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây.»
Hình ảnh dù được thi vị hóa, cũng đã có thực trong tuổi thơ của tác giả « Đến nay mẹ tôi đã chết. Mà cái nghề tầm tang cũng đã chết trong làng tôi rồi (…) Tôi quên làm sao được những mảnh trăng rơi đầy trên những ruộng dâu. Tôi quên sao được tiếng đều đều của guồng xa. »
«Những cảnh đầy thơ, đầy êm ái, đầy tôn nghiêm của nghề tầm tang»vii đã gợi lên giấc mộng tình:
Chàng cùng tôi
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã.
Gần đây, ông có nhắc lại câu thơ Baudelaire đã từng ám ảnh tuổi thơ:
Tant l’écheveau du temps lentement se dévide
(Guồng tơ dần thu ngắn sợi thời gian)
« Làm sao mà chuyển dịch cho được cái nhịp điệu, dư ba âm hưởng ấy » viii. Ta thấy Lưu Trọng Lư đặc biệt lưu tâm đến nhạc điệu trong thơ Pháp; về hình ảnh, Baudelaire đã mượn ở nghề canh cửi (écheveau là cuộn chỉ, cuộn tơ, dévider là tháo chỉ, tháo tơ từ cuộn để dệt). Nghề tầm tang ở nông thôn ta, có phần vất vả nhất định, «làm ruộng ăn nằm, chăn tằm ăn đứng», nhưng là một sinh hoạt của phụ nữ, nhiều thi vị; từ cái buổi một cô gái hái dâu thành Ỷ Lan phu nhân, hay xa hơn nữa, một người đẹp rũ lụa trên bến Trữ La, nghề tầm tang đã lưu lại trong thơ văn nhiều tác phẩm hay – từ Lý Thương Ẩn đến Nguyễn Bính.
Bài Một mùa đông nổi tiếng, là điển hình cho tầm nhìn hồi cố của Lưu Trọng Lư. Bắt nguồn từ một liên quan có thật giữa nhà thơ và một thiếu nữ tên Cúc – chị Điềm Phùng Thị, nhà điêu khắc nay đã qua đời– chuyện nhiều người biết, nhưng không ai dám nhắc lại vì ngại chạm đến đời tư; nay chính Lưu Trọng Lư đã kể lại vanh vách trong suốt năm trang trong hồi ký Nửa đêm sực tỉnhix thì chúng ta ghi lại như một tư liệu văn học:
Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
(…) Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa
(…) Ngày hôm nay tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn nô đùa uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi;
Đôi má em hồng núm nụ cười;
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Giai nhân ở đây là một cô gái tân thời, thuộc loại «răng trắng» đã từng làm cho nhà thơ « vừa đau đớn, vừa căm giận », nhưng bây giờ thì « lệ tràn đêm xuân, tình tràn trước ngõ, mộng tràn gối chăn ». Chuyện « tình sử » ( !) diễn ra tại sân chùa Thầy, hôm ấy có cả nhà thơ Thân Thị Ngọc Quế và chồng là họa sĩ Dương Cẩm Chương, có lúc cùng ở Paris. « Chúng tôi trải giấy nhật trình, bày bữa ăn trưa. Có ít gà quay và chai rượu vang Pháp. Thấy tôi uống, Cúc cũng bắt chước đưa cốc rượu chạm vào môi. Người con gái tuyệt vời khi trên môi nhuốm màu nho tươi và hồng đôi má, rồi để rơi trên trán vài sợi tóc cô đơn vô tình tạo thành một hình tượng nghệ thuật khó phai. Cúc nhìn tôi với nước mắt khẽ rơi ».
Từ cảnh thật, người thật, nhà thơ đã dệt thành một giấc mơ, trong đó, cô gái mới, « đượm sặc mùi nho tươi », đã trở về ngôi « người em sầu mộng của muôn đời »:
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Nhất định Lưu Trọng Lư phải thuộc câu thơ của Đỗ Phủ
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
(Song ngậm nghìn thu ngời tuyết núi
Tản Đà dịch « Nghìn năm tuyết núi song in sắc »).
Đoạn cuối Một mùa đông:
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng
gợi ta nhớ đến nhiều bài thơ Đường, đặc biệt bài Xuân giang hoa nguyệt dạ(Sông xuân đêm trăng hoa) của Trương Nhược Hư:
Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý
Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh
(…)Thùy gia kim dạ biên chu tử
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâux
[Long lanh muôn dặm sóng xao,
Sông xuân một giải, cõi nào không trăng
(…) Thuyền ai thấp thoáng canh thâu,
Dưới trăng ai nhớ, trên lầu nhớ ai…
ĐT dịch
Thơ Lưu Trọng Lư phản ánh một nền văn hóa đang phôi pha nhưng còn để lại những màu sắc, những âm thanh, những « chiếc cáng xanh », những « chiếc cán điều », đến những câu ca dao mà ông rất sành sỏi, và thơ Đường, thơ Tống. Bài Tiếng thu, như nhiều người nhận xét, chịu ảnh hưởng một bài thơ Nhật cổ, và cả thơ Pháp, như Baudelaire hay Verlaine, từ ý thơ đến nhạc điệu; nhưng không khí vẫn đông phương, với những chinh phu, cô phụ, ánh trăng mờ, con nai vàng ngơ ngác. Vũ Ngọc Phan thông thái khi nhận ra âm hưởng cái tên bài Thu thanh phú của Âu Dương Tu; và sau này Lưu Trọng Lư xác nhận đã nghe phụ thân ngâm « có khi ông ngâm cả bài Thu thanh của Âu Dương Tu cho tôi nghe (…) Dầu sao bài thơ ( ?) ấy cũng gợi cho tôi một thứ nhịp điệu mơ hồ nào đó và cho tôi một cái tên để đặt cho bài thơ Tiếng thu của tôi sau này » xi. Nhưng ảnh hưởng chỉ dừng lại ở cái tên: Thu thanh = Tiếng thu, nội dung bài phú và bài thơ không tương quan. Về «con nai vàng ngơ ngác», Lưu Trọng Lư kể lại: «Trên vách, cạnh chỗ tôi hàng ngày ngồi học, có ghi bằng chữ Hán to, bài ký của thầy tôi, và dưới bài ký là hình một con nai có hoa. Tuổi nhỏ tôi sống bên con nai đó » xi . Dĩ nhiên, nai không phải là hình ảnh đặc trưng cho cái gì, trong thơ Pháp, thơ Nhật, thơ Tàu đều có. Con nai vàng Lưu Trọng Lư, cũng như con nai cao của Huy Cận, chỉ chia sẻ nỗi sầu mông lung với « con nai bị chiều đánh lưới » của Xuân Diệu: « Mắt ngơ ngác và thân hình ảo mộng ».
(Ghi chú 2012: chúng ta không biết rõ thời điểm sáng tác bài Tiếng Thu, một trong những thành tựu sớm nhất của nền Thơ Mới. Nó chưa có trong tập Người Sơn Nhân 1933, nhưng được báo Hà Nội Báo khen ngợi tháng 11-1936. Như vậy, có lẽ được sang tác khoảng 1934.)
NGỰA SAY
Cái mơ gặp cái say, bỗng chếnh choáng hương tình:
Vừng trăng lên mái tóc mây
Một hồn thu tạnh, mơ say hương nồng.
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em
(Trăng lên)
Hình ảnh vừa cổ điển, vừa tân kỳ. Vũ Ngọc Phan phê là « tuyệt bút », vì đã bắt gặp « cái phút ái ân của đôi trai gái trong lúc giáo đầu, thật là đầy tình, đầy mộng » xii. Lối giải thích máy móc quá, thành dung tục; có thể vì vậy mà bài thơ hay này đã bị loại ra khỏi Tuyển tập Lưu Trọng Lư, 1987. Với tôi, bài thơ chỉ là một liên tưởng tạo hình. Người xưa lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho thẩm mỹ, thường so sánh tóc với mây: « mây thua nước tóc; tóc mây một món dao vàng…». Lưu Trọng Lư lật ngược tương quan – Baudelaire vẫn thường hành văn như vậy – so sánh mây với tóc, một lối nhân cách hóa, tỏa rộng thành bầu trời, «một hồn thu tạnh»xiii. Chữ tạnh, có nghĩa là dứt cơn mưa, tạnh là một bầu trời quang đãng, dịu mát và tươi thắm, như là mới gột rửa hết bụi trần. Tản Đà đã dùng chữ « sông tạnh » để dịch rất sát chữ Hán « tình xuyên » trong bài Hoàng hạc lâu« tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ »: « Hán Dương sông tạnh cây bày ». Tạnh còn có nghĩa im ắng: « dặm khuya ngắt tạnh mù khơi » (Kiều). Xuân Diệu có lần dùng chữ tạnh trong bài Thu rất hay:
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa,
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà
Buồn ở sông xanh nghe đã lại,
Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
Chữ tạnh gạn lọc nguồn sáng mát trong và vô tội trong cơn « mơ say hương nồng ». Hương thơm và hơi ấm len vào không gian trong vắt, vừa thực vừa mộng: « mắt em là một dòng sông », trong suốt đến độ mọi sự vật đều phản chiếu vào đáy nước, đáy mắt, « mắt em » đầu câu lặp lại ở cuối câu, là một phản ánh. Dòng sông trong đôi mắt gọi về hình ảnh con thuyền, thuyền của « hồn ta », ngược với ẩn dụ « một hồn thu tạnh », hồn của bầu trời. Ta nhớ lại một câu khác, cùng trong bài thơ Thu của Xuân Diệu: « hây hây thục nữ mắt như thuyền », hay Đinh Hùng:
Em tự nghìn xưa chuyển bước về
Thuyền chao sóng mắt dẫn trăng đi.
Khi so sánh: mắt với sông, hay ngược lại, sông với mắt, ta phải đứng xa; khoảng cách đẩy lùi chân trời, làm không gian rộng lên, cao mênh mông, trong niềm yên tĩnh vô biên, «thuyền ta bơi lặng» xiv. Cái bao la bao giờ cũng vô tội, như thơ Lưu Trọng Lư vậy. Những câu thơ hay, đầy chất Lưu Trọng Lư thường vẫn vời vợi. Ngược lại:
Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh
Mộng đẹp bên chăn đã biến rồixv
là một câu thơ hay, nhưng không lộng tình và ngát mộng Lưu Trọng Lư.
Trăng lên là một bài thơ tuyệt vời vì những giao ảnh và giao hưởng tế nhị, tiếp nối hài hòa tạo cảm giác rạo rực, nồng nàn, ngây ngất, nhưng vẫn thanh tân và đằm thắm. Như một đêm thu nào tĩnh và sáng mãi trong lòng ta. (Ghi chú 2012: trong Tiếng Thu 1939, có 2 bài cùng tên Trăng lên tr.49 và 86)
Mơ và say một lần nữa lại làm ta ngất ngưỡng với bài Say mà Lưu Trọng Lư có lần bảo là mình thích nhất:
Ước gì ta có ngựa say,
Con sông bên ấy bên này của ta.
Trời cao, bến lặng, bờ xa…
Lao đao gió sậy, la đà dặm trăng…
Một mai bên quán lại ngừng
Quẩy theo với rượu, một vừng giai nhân.
Ta say ngựa cũng tần ngần,
Trời cao xuống thấp, núi gần thêm xa.
Bài Say đăng trên báo Hà Nội Tân Văn ngày 09.4.1940 được Vũ Ngọc Phan trích lại xvi toàn văn và bản trích được xem như là văn bản chính, vì so với Tuyển tập Lưu Trọng Lư, tr.64, thì đầy đủ và hợp lý, hay hơn. Trong cơn ngây ngất, người say muốn ngựa cũng say; ngựa không chỉ là phương tiện vận chuyển, hoặc là bạn đường, mà hóa thân làm tri kỷ và đồng lõa, cùng làm nghiêng ngả càn khôn. Nhịp thơ linh động, so với nhịp đôi đều đều của lục bát: «bên ấy … bên này… bến lặng… bờ xa» như giọng lẩm nhẩm của người say, không còn phân biệt phương hướng, tả, hữu, trước, sau; đất liền và sông nước đều như nhau, đều «của ta»: say là chiếm hữu, là trấn ngự trần gian. Mải làm chủ trần gian nên quên cả mình, quên tự chủ. Và mơ hồ chữ nghĩa: « gió sậy » không « lao đao » mà chỉ lao xao, con người mới lao đao; dặm trăng chỉ lờ mờ, nếu cần thì la cà chứ không la đà, cành trúc mới la đà: âm thanh và hình khối nhòe nét. Nhưng lao đao và la đà vẫn có nét chung là mất thăng bằng qua âm l /đ luyến láy, như trong: lảo đảo, lênh đênh, long đong, lừ đừ, lờ đờ, lật đật, lận đận… Bước chân chập choạng nên mới « ước gì có ngựa ». Mà ngựa phải say, niềm vui mới hài hòa, trọn vẹn, mới cùng tương đắc và tâm đắc « Bên quán lại ngừng ». Có quán rồi, mà muốn chắc bụng, phải « quẩy theo với rượu », và quê bẵng là mình … đi ngựa. Trên ngựa thì làm sao mà gánh mà quẩy ? « Một vừng giai nhân » ở đây nên hiểu là vầng trăng hơn là một người đàn bà, như Vũ Ngọc Phan đã phân tích. Vui như thế, ngây ngất như kia, ai gánh đàn bà theo làm gì? Vừng giai nhân là một hình ảnh tài hoa và hàm súc, thu gọn phong cách « nghìn năm thi sĩ tửu đồ » như lời Tản Đà hay qua câu thơ Hồ Xuân Hương:
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu
Túi nghiêng phong nguyệt nặng vì thơ
Ánh trăng sóng sánh trong gánh nước là một hình ảnh quen thuộc trong thơ nôm Nguyễn Trãi:
Khách đến chim rừng hoa xẩy rụng,
Chè tiên nước ghín nguyệt theo về
(Tiên nghĩa là nấu; ghín là gánh nước)
Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt
Mai rụng hoa đeo, bóng cách song
Uống chè, uống rượu trong cảnh ấy, là uống cả ánh trăng, là đón vũ trụ trong sáng vào lòng:
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
(Nguyễn Trãi)
Chúng ta lại nhớ Xuân Diệu: « trăng võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng » xvii.
[Về ánh trăng trong nồi nước chè mộc mạc, Quang Dũng có đoạn văn hay: « chốc chốc họ lại vục cái bát vào nồi chè tươi ông cụ đã để sẳn ngoài hiên, làm tan mảnh trăng vằng vặc ở trên lớp bã chè ở đáy nồi » xviii].
« Một vừng giai nhân » tạo nên một vòng hào quang, phong nhã hào hoa, tình tứ mà trân trọng. Kiểu cách một tí, lả lơi một tí; liều lĩnh mà dè dặt; chừng mực nhờ cổ kính. Nhà thơ chợt biết mình say: « ta say ngựa cũng tần ngần », nghĩa là ngựa còn có phần tỉnh táo – nhà thơ mong thế, trong niềm e ngại không gian đang bớt chiều cao và thêm chiều rộng:
Trời cao xuống thấp, núi gần thêm xa
« Cao, thấp, gần xa », những khoảng cách xa ngái, gập ghềnh. « Tần ngần » là phải. Phần e đường sá, phần thương dãi dầu. Uống rượu, ngại nhất là đường về.
Về nhà, hay về thực tại, đều ngại. Về là ngại.
Một tâm hồn mơ mộng, đôn hậu và trong sáng như Lưu Trọng Lư, một trái tim thi sĩ như thế nhất định phải gặp nhiều khó khăn khi va chạm vào những góc cạnh cuộc sống. Cuộc sống bình thường thôi, nói chi đến lịch sử khốc liệt của chúng ta. Sống bình thường thôi, tồn tại thôi, là đã gian nan, nói chi đến việc đưa cuộc sống vào nghệ thuật – theo những quy luật thường tình thôi – nói chi đến quan điểm hẹp hòi của chủ nghĩa hiện thực xã hội, trong một giai đoạn nghiệt ngã của đất nước.
Nhiều người có thành kiến với Lưu Trọng Lư, vì những tập thơ về sau của ông, và cũng vì thái độ cứng nhắc của ông thời chống Pháp ở Khu IV, hay qua những buổi nói chuyện về thơ sau 1975 in lại trong Mùa thu lớn. Con người mơ mộng, khi lạc bước vào những hành lang thực tế, có khi vụng về và thô bạo. Tuy gần gũi, ông không học được cái khôn của Hoài Thanh, cái khéo của Nguyễn Tuân, ông tai tiếng nhiều, dù danh lợi không là bao.
Lưu Trọng Lư là một trong các nhà thơ gian khổ nhất trong hai cuộc kháng chiến. Từ 1946 ông tham dự chiến khu Hòa Mỹ tại Thừa Thiên là chiến trường ác liệt vào hạng nhất trên toàn quốc; đến tháng 5.1975, khi các nhà thơ, nhà văn khác vào Nam để sum họp, đoàn tụ, thì Lưu Trọng Lư đi tìm xác đứa con trai, hy sinh tại Vàm Cỏ Tây, mấy hôm trước ngày 30.4, trên đường tiến quân về Sài Gòn. Giữa hai cái mốc đánh dấu bằng lửa và máu đó, Lưu Trọng Lư không sáng tác được gì đặc sắc; chức nọ chức kia nếu có cũng chỉ là phù danh.
Thơ ông sau này không hay vì không hợp với tầm viết của ông, vì đường lối thúc bách đã đành, nhưng còn vì một chọn lựa, theo nhu cầu thời đại và đòi hỏi của lương tâm. Vì thật ra, không ai bắt ai phải làm thơ; bao nhiêu người không làm thơ. Suốt thời kỳ chống Pháp, Huy Cận không làm thơ bao nhiêu.
Vì rằng, trong một xã hội, một giai đoạn nào đó, người ta có thể viết: « Em ngồi trong song cửa, Anh đứng dựa tường hoa », nhưng vào một thời điểm khác, sau khi đã sống, đã nhận thấy những hoàn cảnh khác, người ta không còn viết được như vậy nữa. Ở Pháp cũng như vậy thôi, những Aragon, Eluard, từ trường phái siêu thực bước vào kháng chiến chống Đức cũng đã thay đổi đề tài. Năm 1940 Camus, trong L’Etranger (Kẻ lạ) tạo nên nhân vật Meursault hoàn toàn dửng dưng với xã hội; sau những năm kháng chiến ông viết La Peste (Dịch hạch) nói đến tình tương thân tương trợ giữa con người. Tại Pháp nào có đường lối nào thúc ép ai đâu. Nhưng với những đề tài mới, dấn thân hơn, họ vẫn thành công vì nghệ thuật của họ đa dạng hơn. Còn Lưu Trọng Lư, dù hẹn đến luân hồi, cũng chỉ dâng được cho đời «đóa mộng đầu» của kiếp trước, vẫn dưới một gốc sim già, một buổi bình minh của Thơ Mới. Thơ Lưu Trọng Lư chỉ trinh tiết một lần.
Lý thuyết văn nghệ rườm rà, phức tạp trong khi sự sáng tạo và thưởng ngoạn theo một vài quy luật đơn giản. Một nền văn nghệ phong phú, khi sáng tác đưa đến lý thuyết; nền văn nghệ ấy sẽ cằn cỗi khi ngược lại, lý thuyết đúc khuôn cho tác phẩm. Trường hợp Lưu Trọng Lư cũng vậy thôi. Khi thơ ông là « một chút hồn thơ mộng, vất chỗ này một chút, chỗ kia một chút, nó thành hình gì thì nó là cái ấy » xix, thì thành những đóa hoa tráng lệ, mãi mãi lưu hương gửi sắc lại cho đời. Khi nó thu mình vào những khuôn mẫu, do lịch sử hay lý trí chỉ định, thì nó trở thành những vật dụng thường và xoàng, dù có ích hay không có ích.
Thập niên cuối cùng trong đời, từ khoảng 1980 trở đi, dường như tâm hồn Lưu Trọng Lưu thanh thản hơn, như thoát lý ra khỏi trần lụy và thế tình. Thơ ông thanh thoát và trong trẻo hơn ba mươi năm về trước, giàu cảm xúc và nghệ thuật hơn. Tập hồi ký mới đây (1989) Nửa đêm sực tỉnh là một lưu bút chân thành, cảm động, xứng đáng với thế giới mà Lưu Trọng Lư, với tập Tiếng thu, đã sáng tạo nửa thế kỷ trước. Một thế giới « vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời ».
Lưu Trọng Lư sinh ngày 19.6.1912 tại Quảng Bình, mất ngày 10.8.1991 tại Hà Nội.
Đặng Tiến
Viết tại Orléans, 18.12.1991 ,ngày giỗ Xuân Diệu
Đọc và cập nhật nhân kỷ niệm 100 năm sinh Lưu Trọng Lư,
và 80 năm xuất bản báo Phong Hóa, 22-9-1932.
22-9-1932- 2012
Lưu trọng Lư Bai thơ làm tại Hội An, 1938, nổi tiếng nhờ Phạm Duy phổ nhạc, tên Hoa rụng ven sông |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét