T
|
RÂN đứng chết điếng người khi hay tin mẹ bị nước lũ cuốn trôi.
Cách đây mấy hôm Trân về nhà kỵ cơm cha xong, ở lại thêm một bữa nữa chủ yếu la cà nơi quán xá đãi đằng mấy ông bạn thân thiết hồi còn ở quê, đến khi gần đi mới dành đâu non tiếng đồng hồ nói chuyện với bà Sáu - mẹ của Trân - những chuyện buồn vui ngày xưa khi hai mẹ con dắt díu nhau ở bến Đá, Vĩnh Điện.
Cảnh mẹ goá con mồ côi giữa thời buổi chiến tranh loạn lạc, với đôi gàu tôn, chiếc đòn gánh tre, bà Sáu chuyên đi gánh nước thuê cho một số hộ dân, sạp buôn bán tạp hóa và người bán cá trong chợ Mai, Trân lớn lên từng ngày bằng sự làm lụng vất vả như thế của mẹ, được cái Trân ngoan lắm, ngoài buổi cắp sách vở đến trường, thời gian còn lại phụ giúp mẹ nhiều việc, mười hai tuổi đã biết nấu cơm kho cá, rồi còn tự giặt giũ áo quần. Hồi ấy cơ cực mà ấm cúng, có lần khi mẹ hỏi lớn lên con làm gì? Trân sà vào lòng mẹ, tự tin trả lời: “Con học sau làm nhiều tiền để nuôi mẹ!”.
Hòa bình bà Sáu dọn về quê làm ruộng, Trân đi học thêm bốn năm nữa rồi rủ các bạn lên rừng làm nghề khai thác lâm sản. Nơi núi rừng Trân nổi lên là một tay thợ rừng có nghề, do kinh nghiệm tích luỹ được trong những năm ở bến Đá, nơi có một vựa cây với đủ loại danh mộc. Ông hai Mịch, chủ vựa người sành cây gỗ, nói với Trân: “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt! nhưng không làm gì mau phát đạt bằng lấy của rừng” Độ ấy rừng được quản lý chặt chẽ mà làm giàu dễ như thế, huống hồ gì…
Chỉ cần mười năm vác rựa mang cưa hạ cây nhóm trai tráng của Trân ai cũng phất lên trông thấy, ngay tại thị
trấn Kha Ly nầy Trân có hẳn một công ty mang tên Trân Lâm, cơ ngơi như
rừng bạt ngàn cây lá, kinh doanh chế biến các loại gỗ quý hiếm đến thô tạp, đội ngũ công nhân hàng trăm người ngày đêm xử dụng máy móc hiện đại cưa xẻ, gia công…, số gỗ đã về tới đây đương nhiên là hợp pháp hẳn hoi. Ở dưới phố Đà Nẵng Trân có mấy Resort chuyên kinh doanh du lịch, đất đai bất động sản cái thì đứng tên vợ, cái đứng tên ba người con, nếu nói nhà Trân đại gia thành đạt nhất nhì ở phố không sai, các con của Trân như diều gặp gió, con đầu theo nghề cha, còn lại con trai út lập đội đào đải vàng, con gái có đội chuyên khai thác cát sạn trên sông, trang bị đầy đủ công cụ hiện đại xe, máy, ghe thuyền, ngày càng ăn nên làm ra.
Chỉ có bà Sáu nay vẫn sống trong một ngôi nhà đơn sơ tường xây mái ngói sát sông Thu Bồn. Nhiều lần Trân đề nghị mẹ ra phố ở với các cháu hay lên ở với vợ chồng Trân, nhưng bà Sáu lắc đầu: “Mẹ quen sống như thế nầy rồi!”, với lại Trân nói thế chứ vợ có bao giờ hé răng ngỏ một lời mời bà về ở đâu? bà nói bóng nói gió “Không có gì bằng nhà mình, mình ở!”. Biết mẹ ngày tuổicàng cao sức khoẻ giảm nay mai sẽ lọm khọm vào ra một thân một mình ở quê bất tiện, đó là lúc bình thường còn khi ốm đau khó khăn hơn nhiều, nhưng tính bà Sáu, “Ưng chi làm nấy, ai nói bà nghe!” Với lại Trân lo xa thôi chứ như bà Sáu còn khoẻ chán, ở tuổi sáu mươi bốn chưa khi nào “tốn viên thuốc đau đầu” – bà Sáu nói thế - mà đúng thật mọi chuyện đồng áng như xớt bờ, cuốc góc, rải giống, rải phân bà còn làm gọn ơ, chỉ có khi nhổ dặm, cấy hay thu hoạch bà mới nhờ vả bà con xóm giềng, chuyện công cán trước thảo sau nợ sòng phẳng chu đáo nên ai cũng sẵn lòng giúp bà cấy hái hai sào ruộng, lúa gạo đủ ăn, lâu lâu con cháu gởi tiền đi chợ, chính vì vậy mà bà nghĩ: “Tội chi đi đâu, nhất là đi bỏ quê xứ ở với dâu con, nhiếu khi chúng nó la mắng con cái, nghe y như nói chính mình, chóng chầy cũng sinh chuyện”. Bà Sáu nhớ bà Di cùng xóm mà sợ, cách đây mười năm bà Di nghe lời con bán hết nhà cửa ruộng vườn theo con trai vào tận Sài Gòn, ban đầu cơm lành canh ngọt sau vì hờn giận con dâu, bà Di trở về quê ở với rể con và cháu ngoại. Theo bà Sáu mỗi người có hoàn cảnh khác nhau nhưng cái gì tránh được nên tránh. Hôm cha con Trân về, bà Sáu nói: “Mẹ nghe con, cháu giàu có mừng lắm nhưng sao thấy ngại ngại…” Trân nói: “Mẹ hay lo xa, giờ con đâu còn vô rừng đốn cây như mọi năm đâu?”. Bà Sáu nói nhỏ nhẹ: “Biết là không trực tiếp nhưng con tổ chức bao nhiêu người ngày ngày phá rừng, vợ chồng con Triện, vợ chồng thằng Kha đứa đào sông đứa đào núi… như thế còn chi!”. Chuyện huỷ hoại môi trường lâu nay được phản ánh nhiều song đâu cũng vào đấy!. Cây rừng khó có thể trồng lại cho kịp với tốc độ đốn phá kinh khủng, nhiều khu rừng trơ trọc, núi đồi không có cây cối che phủ, đất bị bào mòn, sụt lở, sông, núi biến dạng môi trường sinh thái biến đổi nghiêm trọng, tai hoạ từ thiên nhiên đem lại cho con người không lường.
Cả nhà Trân quá biết mọi nguy cơ, nhưng hơi đâu mà lo miễn lách được luật pháp, làm giàu!.
* * *
Trời mưa mỗi lúc một nặng hạt, trận lũ xãy ra quá bất ngờ, mọi khi ít ra cũng mưa to gió lớn ba, bốn ngày đêm rồi nước mới lớn, đàng này chiều hôm trước mây đen ùn ùn đổ về, mưa… mưa… sau đó mống Cu Đê* đóng vắt ngang sáng rực lưng chừng trời, kinh nghiệm dân gian thấy hiện tượng này phải mau “chạy về dọn gác”.Nhanh như chớp sau đêm mưa tầm tã sáng ra nước lũ đã ngập hết đồng ruộng, xóm làng, mưa to mấy không lo bằng gió chướng, nước đang lớn mà chướng còn thổi mạnh quá sợ lụt to! Nhiều người phỏng đoán…
Tối lại hầu như làng An Cư không chỗ nào không bị ngập nước, nặng nhất cánh bắc, như mấy năm ở hàng cây keo lá tràm đường liên thôn Nam – Bắc lội bộ nước trên đầu gối thì ở khu dân cư sát sông nước lũ ngập mấp mem mái hiên nhà. Ở đó nước chảy như thác, nên chạng vạng mọi người đã đi tránh lũ, tới khuya Đội phòng lũ lụt thôn kiểm tra lại chẳng thấy bà Sáu. Hỏi ông ba Nghiêng ở gần nhà, ông nói: “Khi đi theo ghe hai Tiên về đây tôi thấy bà Sáu còn đang loay hoay đóng cửa nhà, bà nói chút sẽ đi.” Cả xóm lo lắng thức trắng đêm…
Nước lũ vừa rút Trân chạy thuyền máy về, nhiều bà con đứng hai bên bờ hói dõi mắt ngong ngóng…, suốt từ mờ mờ sáng đến giờ hàng chục lượt người xử dụng thuyền máy ghe bơi thay phiên nhau tìm kiếm bà Sáu, mà không thấy tăm hơi gì, nhìn dòng nước lũ đục ngầu trôi trôi… ai nấy cũng sốt ruột. Con dâu, cháu chắt về đông đủ đứng ngồi ủ rũ, cô cháu nội lâm râm đọc kinh niệm Phật cầu xin…
Đám tang bà Sáu đông người đưa tiễn. Trân lặng lẽ bước theo sau linh cữu mẹ, những bước chân nặng như đeo chì. Không biết anh đang suy nghĩ điều gì khi hậu quả… ./.
H.V
H.V
-------------------------
* Cu Đê là đầu nguồn sông Thủy Tú, ở phía tây bắc Quảng Nam – Đà Nẵng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét