
Làm thơ không chỉ tỏ bày Viết văn không để ngày sau luận bàn Trót mang ba chữ sàn sàn Xin là hơi thở nồng nàn thương yêu Thơ văn tha thiết một điều Mong lòng Nhân Nghĩa ít nhiều trao nhau. HÒA VĂN * CHÀO BẠN ĐẾN VỚI HÒA VĂN * Tác phẩm đăng trên HÒA VĂN: Tác giả giữ bản quyền - Khi đăng lại tác phẩm đề nghị ghi rõ tên tác giả - Việc xử dụng tác phẩm để in ấn sách phải có sự đồng ý của tác giả - Email: h.vandientrung@gmail.com
Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025
Liêu Thái: Ở QUÊ CÒN THẤY HỒN QUÊ?
Ở quê giờ chẳng còn mấy gì để khoe với phố, ở quê không còn trái duối dại, chẳng còn trái trâm, trái mây, ngay cả cây ổi sẻ cũng đã lai giống siêu trái... Cây đa, giếng làng, bụi tre, bến nước cũng mất dấu từ lâu, mọi sinh hoạt mang hồn quê kiểng cũng dần phai nhạt... Không chừng, bạn thấy trống rỗng. Mọi thứ tưởng chừng không còn gì.
Nhưng, còn đó, còn nhiều lắm!
Sáng nay, trong quán cóc đầu làng, một người khách ngoài thành phố về, ghé ngang, hỏi chủ quán có làm lúa không, có cúng cơm gạo mới không, chủ quán trả lời rằng tập tục ấy ở quê đã bỏ từ lâu. Vị khách ngồi trầm ngâm một lúc, chừng như ông ấy đang tiếc nuối một điều gì... Với tôi, tôi cảm nhận được nỗi lòng của cả người hỏi và người trả lời. Người hỏi thì tiếc, hụt hẫng, còn người trả lời thật thà bởi họ quá mệt mỏi.
Trong thời đại mà mọi thứ đều phì đại, con người bị cuốn vào vòng xoáy đời sống, liên tục, mải miết, loay hoay kiếm tiền, đến khi hữu sự thì chỉ có tiền là giải quyết, ngày cúng kính, giỗ chạp, cũng phải gọi bia, gọi dịch vụ nấu cho ra dáng trịnh trọng mà kỳ thực, cái "dáng trịnh trọng" ấy lại vô hồn, mệt mỏi và tốn kém. Chính vì mệt mỏi, người ta sẽ giản lược bớt được thứ nào hay thứ ấy.
Ngày xưa người nhà nông trông chờ vào cơn mưa, ngọn nắng và thời tiết, mọi thứ gắn liền Thiên - Địa - Nhân, nên lòng biết ơn Trời Đất được gửi gắm, ký thác qua mâm cúng cơm mới sau mùa thu hoạch. Còn bây giờ, không lẽ cúng tạ ông Tàu đã nhập thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, cúng tạ ông thủy lợi đã đổ nước hay sao?! Thế giới vật dục đã chiếm mất những phần niềm tin còn sót lại nơi con người.
Ngay cả lũy tre làng hay cây đa, giếng nước nơi ngã ba, người ta nhìn thấy ở đó một lô góc, có thể kinh doanh, có thể xem là đất vàng, còn cây tre trong vườn, mỗi năm thu hoạch không tới vài triệu đồng, giá mỗi cây tre người ta mua chừng hai chục ngàn đồng, giá măng luộc mỗi búp chưa đầy ba chục ngàn đồng, cả một vườn tre lớn có khi bán không tới hai triệu trên một năm. Thợ tre thì đã già và chết hết rồi!
Người ta nghĩ rằng nếu ủi cái bụi tre đi, biến nó thành một lô đất làm nhà thì có tiền tỉ. Người ta biết làm gì để thay đổi số phận ngoài việc cắt bớt đất để bán! Bán cho con ăn học, đổi đời, bán để mua chiếc xe mà chạy, bán để có chút tiền giằng túi, bán để có chút tiền sắm chút vàng, cho con dựng vợ, gả chồng... Những lũy tre làng mất dần do cái "thấy" từ vĩ mô đến từng gia đình.
Mọi thứ ở chốn quê mất dần, may sao cau có giá, làng quê giờ có những vườn cau đẹp. Nhưng cũng đừng quên rằng năm nào cau không xuất khẩu sang Trung Quốc thì người ta phải nghĩ đến chuyện chặt bỏ cây cau vì kiến và đói.
Có một thứ bất cập là Việt Nam không có đầu ra cho cây tre quê, không có đầu ra cho cây cau nếu như Trung Quốc không "ăn hàng". Giả sử nền kinh tế Việt Nam chọn Mỹ hoàn toàn thì chắc chắn hai loại sản phẩm tre, cau và có thể sau này là sen sẽ nhanh chóng mất dấu. Vì tại Mỹ không có kĩ nghệ làm kẹo cau hay làm các sản phẩm từ tre, hạt sen như Trung Quốc. Một bài toán đau đầu đối với nông nghiệp mang chất quê củi, với cái "hồn quê" xứ Việt.
Nói dông dài, từ chuyện này sang chuyện khác mất rồi, ý tôi muốn nói đến cái tình quê, hồn quê. Thực ra, bây giờ vẫn còn đậm đà lắm, có những thứ mà con người có làm ra cả ngàn tỉ vẫn chưa chắc có được. Bởi tiền có thể làm ra, nhưng thứ ấy không mua được bằng tiền.
Gia đình tôi có cái may mắn này, tôi vẫn sống với đầy đủ nó - Tình Quê. Ở quê, khi có miếng mít, trái chanh, trái xoài, nải chuối, ký gạo mới hay lá mì, cái bánh ú, cái bánh chưng, chục trứng gà... Người thân, bà con, hàng xóm hay cho/tặng/biếu nhau. Điều ấy như một niềm vui của cả người cho và người nhận.
Tôi có ông cậu, cứ mỗi lần mít chín là ông nhớ tới nhà tôi, tôi có ba người dì, ba ông dượng, cứ mỗi lần có dầu phụng mới, gạo mới, nếp mới hay cái bánh ú, bánh chưng, bánh rò... là cho gia đình tôi một ít. Và những lúc cầm các thức quà của họ cho, vợ chồng tôi hay nói vui với nhau "giờ bỏ ra vài chỉ vàng cũng không mua được mấy cái này. Thậm chí có tiền tỉ mua cũng không có". Bởi bên trong cái bánh hay thức quà là sức nặng không thể đo lường, định dạng của Tình Quê, của tình cảm người dành cho người.
Sống ở quê, đương nhiên ai cũng bươn bả, bon chen để có đồng bạc mà trang trải. Thế nhưng có những thứ không bao giờ mua được bằng tiền. Như mấy cái bánh ú mồng năm của ông dượng tôi đã gói. Thay vì mua bánh ú tro chỉ tốn hai mươi lăm ngàn đồng một chục, ông mua nếp, hái lá, ngồi hí hoáy gói bánh, nấu bánh, cúng Gia Tiên xong thì mang cho con cháu mỗi đứa vài cái... Những cái bánh ấy không thể định giá bằng tiền hay bằng bất cứ thứ vật chất nào!
Và chất nếp dẽo, thơm của cái bánh quê như một loại keo dán gắn tâm hồn trẻ nít vào quê hương. Thiếu nó, người ta sẽ ít có khái niệm về quê hương hay bà con, làng xóm hơn. Bởi những thứ keo dán tuổi thơ bằng Tình Quê đeo đẳng và theo con người cho đến khi ngừng thở. Không phải vô duyên vô cớ mà nhiều người già, đến khi gần qua đời lại thèm ăn một món ăn nào đó có gắn với tuổi thơ tươi đẹp và đáng nhớ của họ.
Và trong hàng trăm thứ đã bị kĩ nghệ hóa, bị biến thành loại sản phẩm du lịch hay thứ gì đó mang hơi hướm thực dụng, thì chỉ có Tình Quê, Hồn Quê là không hề suy suyễn, và nó có chỗ đứng, đất sống riêng.
Ps': Quà quê trưa nay, chuối mốc, gạo mới, bánh ú của dượng nấu, dì cho...
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét