Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025

Liêu Thái: Ở QUÊ CÒN THẤY HỒN QUÊ?

Ở quê giờ chẳng còn mấy gì để khoe với phố, ở quê không còn trái duối dại, chẳng còn trái trâm, trái mây, ngay cả cây ổi sẻ cũng đã lai giống siêu trái... Cây đa, giếng làng, bụi tre, bến nước cũng mất dấu từ lâu, mọi sinh hoạt mang hồn quê kiểng cũng dần phai nhạt... Không chừng, bạn thấy trống rỗng. Mọi thứ tưởng chừng không còn gì. Nhưng, còn đó, còn nhiều lắm! Sáng nay, trong quán cóc đầu làng, một người khách ngoài thành phố về, ghé ngang, hỏi chủ quán có làm lúa không, có cúng cơm gạo mới không, chủ quán trả lời rằng tập tục ấy ở quê đã bỏ từ lâu. Vị khách ngồi trầm ngâm một lúc, chừng như ông ấy đang tiếc nuối một điều gì... Với tôi, tôi cảm nhận được nỗi lòng của cả người hỏi và người trả lời. Người hỏi thì tiếc, hụt hẫng, còn người trả lời thật thà bởi họ quá mệt mỏi. Trong thời đại mà mọi thứ đều phì đại, con người bị cuốn vào vòng xoáy đời sống, liên tục, mải miết, loay hoay kiếm tiền, đến khi hữu sự thì chỉ có tiền là giải quyết, ngày cúng kính, giỗ chạp, cũng phải gọi bia, gọi dịch vụ nấu cho ra dáng trịnh trọng mà kỳ thực, cái "dáng trịnh trọng" ấy lại vô hồn, mệt mỏi và tốn kém. Chính vì mệt mỏi, người ta sẽ giản lược bớt được thứ nào hay thứ ấy. Ngày xưa người nhà nông trông chờ vào cơn mưa, ngọn nắng và thời tiết, mọi thứ gắn liền Thiên - Địa - Nhân, nên lòng biết ơn Trời Đất được gửi gắm, ký thác qua mâm cúng cơm mới sau mùa thu hoạch. Còn bây giờ, không lẽ cúng tạ ông Tàu đã nhập thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, cúng tạ ông thủy lợi đã đổ nước hay sao?! Thế giới vật dục đã chiếm mất những phần niềm tin còn sót lại nơi con người. Ngay cả lũy tre làng hay cây đa, giếng nước nơi ngã ba, người ta nhìn thấy ở đó một lô góc, có thể kinh doanh, có thể xem là đất vàng, còn cây tre trong vườn, mỗi năm thu hoạch không tới vài triệu đồng, giá mỗi cây tre người ta mua chừng hai chục ngàn đồng, giá măng luộc mỗi búp chưa đầy ba chục ngàn đồng, cả một vườn tre lớn có khi bán không tới hai triệu trên một năm. Thợ tre thì đã già và chết hết rồi! Người ta nghĩ rằng nếu ủi cái bụi tre đi, biến nó thành một lô đất làm nhà thì có tiền tỉ. Người ta biết làm gì để thay đổi số phận ngoài việc cắt bớt đất để bán! Bán cho con ăn học, đổi đời, bán để mua chiếc xe mà chạy, bán để có chút tiền giằng túi, bán để có chút tiền sắm chút vàng, cho con dựng vợ, gả chồng... Những lũy tre làng mất dần do cái "thấy" từ vĩ mô đến từng gia đình. Mọi thứ ở chốn quê mất dần, may sao cau có giá, làng quê giờ có những vườn cau đẹp. Nhưng cũng đừng quên rằng năm nào cau không xuất khẩu sang Trung Quốc thì người ta phải nghĩ đến chuyện chặt bỏ cây cau vì kiến và đói. Có một thứ bất cập là Việt Nam không có đầu ra cho cây tre quê, không có đầu ra cho cây cau nếu như Trung Quốc không "ăn hàng". Giả sử nền kinh tế Việt Nam chọn Mỹ hoàn toàn thì chắc chắn hai loại sản phẩm tre, cau và có thể sau này là sen sẽ nhanh chóng mất dấu. Vì tại Mỹ không có kĩ nghệ làm kẹo cau hay làm các sản phẩm từ tre, hạt sen như Trung Quốc. Một bài toán đau đầu đối với nông nghiệp mang chất quê củi, với cái "hồn quê" xứ Việt. Nói dông dài, từ chuyện này sang chuyện khác mất rồi, ý tôi muốn nói đến cái tình quê, hồn quê. Thực ra, bây giờ vẫn còn đậm đà lắm, có những thứ mà con người có làm ra cả ngàn tỉ vẫn chưa chắc có được. Bởi tiền có thể làm ra, nhưng thứ ấy không mua được bằng tiền. Gia đình tôi có cái may mắn này, tôi vẫn sống với đầy đủ nó - Tình Quê. Ở quê, khi có miếng mít, trái chanh, trái xoài, nải chuối, ký gạo mới hay lá mì, cái bánh ú, cái bánh chưng, chục trứng gà... Người thân, bà con, hàng xóm hay cho/tặng/biếu nhau. Điều ấy như một niềm vui của cả người cho và người nhận. Tôi có ông cậu, cứ mỗi lần mít chín là ông nhớ tới nhà tôi, tôi có ba người dì, ba ông dượng, cứ mỗi lần có dầu phụng mới, gạo mới, nếp mới hay cái bánh ú, bánh chưng, bánh rò... là cho gia đình tôi một ít. Và những lúc cầm các thức quà của họ cho, vợ chồng tôi hay nói vui với nhau "giờ bỏ ra vài chỉ vàng cũng không mua được mấy cái này. Thậm chí có tiền tỉ mua cũng không có". Bởi bên trong cái bánh hay thức quà là sức nặng không thể đo lường, định dạng của Tình Quê, của tình cảm người dành cho người. Sống ở quê, đương nhiên ai cũng bươn bả, bon chen để có đồng bạc mà trang trải. Thế nhưng có những thứ không bao giờ mua được bằng tiền. Như mấy cái bánh ú mồng năm của ông dượng tôi đã gói. Thay vì mua bánh ú tro chỉ tốn hai mươi lăm ngàn đồng một chục, ông mua nếp, hái lá, ngồi hí hoáy gói bánh, nấu bánh, cúng Gia Tiên xong thì mang cho con cháu mỗi đứa vài cái... Những cái bánh ấy không thể định giá bằng tiền hay bằng bất cứ thứ vật chất nào! Và chất nếp dẽo, thơm của cái bánh quê như một loại keo dán gắn tâm hồn trẻ nít vào quê hương. Thiếu nó, người ta sẽ ít có khái niệm về quê hương hay bà con, làng xóm hơn. Bởi những thứ keo dán tuổi thơ bằng Tình Quê đeo đẳng và theo con người cho đến khi ngừng thở. Không phải vô duyên vô cớ mà nhiều người già, đến khi gần qua đời lại thèm ăn một món ăn nào đó có gắn với tuổi thơ tươi đẹp và đáng nhớ của họ. Và trong hàng trăm thứ đã bị kĩ nghệ hóa, bị biến thành loại sản phẩm du lịch hay thứ gì đó mang hơi hướm thực dụng, thì chỉ có Tình Quê, Hồn Quê là không hề suy suyễn, và nó có chỗ đứng, đất sống riêng. Ps': Quà quê trưa nay, chuối mốc, gạo mới, bánh ú của dượng nấu, dì cho...

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2024

Văn Công Hoàng: Ca khúc Thương nhớ lụa Mã Châu

Thương nhớ lụa Mã Châu. Thơ: Lê Anh Dũng. Nhạc và biểu diễn: Văn Công Hoàng. Video: Trần Ngọc Yến

Thứ Năm, 4 tháng 1, 2024

HÒA VĂN: Mắm cá chuồn bột

 


Quảng Nam có nhiều món mắm cho dù mang nó đến bất kể vùng miền nào

không lẫn vào đâu được. Đó là nắm cá cơm than, mắm cá nục, mắm cá thính...
Tính đặc trưng của từng loại đã thành đặc sản, đến nay ai cũng biết, nếu không
nói là đã từng thưởng thức và tấm tắc khen ngon.

Ở đây xin giới thiệu một món ăn, một thời có mặt tại làng Xuân Đài (nay thuộc xã Điện Quang, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).
Một dịp đến thăm bác Văn Đức Đổng (năm 2012 đã trên 80 tuổi), người làng Xuân Đài, trong buổi trò chuyện, bác nhắc đến thân mẫu của bác về tài chế biến các món ăn dân dã và phù hợp với đồng tiền bát gạo ở nông thôn những năm 1940 – 1965. Một trong món ăn mà bác nói ngon, ngon lắm là Mắm cá chuồn bột.

Độ khoảng tháng Ba âm lịch, khi con tu hú kêu rân tu hú tu hú... đó là báo hiệu mùa cá chuồn đang rộ.
Biển cửa Đợi, Hội An nơi từ lâu nổi tiếng luôn luôn có nhiều loại cá biển mà lúc nào cũng tươi và ngon như cá ngừ, cá nục, cá thu, cá sòng, cá chuồn... Lúc nầy dù có bận bịu công việc gì, người làng Xuân Đài cũng dàn xếp, rủ nhau mướn ghe bầu đi Cửa Đại mua cả chuồn. Đặc điểm quan trọng cần lưu ý, nếu mua cá chuồn về làm mắm thì có bị ươn cũng không sao, nhưng để làm cá chuồn bột nhất định phải chọn loại cá trộng con và tươi xanh mới được.
Cá chuồn làm ruột rửa sạch, vớt ra để ráo nước, cắt bỏ đầu cá, sau đó bỏ cá vào hũ sành (không được muối vào hũ đất), muối giống như muối cá cơm than hoặc cá nục. Muối dùng là loại muối hạt to, trắng. Nếu có được muối Cà Ná mua để dành vài ba năm, nay đem ra dùng càng tốt vì loại muối cũ nầy để lâu mất dần chất đắng thường có trong muối ăn. chỉ còn vị mặn tinh khiết, muối mắm càng ngon. Lượng muối theo kinh nghiệm (ba cá một muối), cứ một lớp cá vừa vừa không dày không mỏng rải một lớp muối. Việc muối cá phải nhanh gọn để tránh ruồi bâu vào dễ sinh con dòi trong hũ mắm. Cuối cùng dùng miếng vải dày bịt kín miệng hũ lại, xong đem hũ mắm vừa muối ra nơi có nắng cả ngày phơi liên tục suốt ngày đêm khoảng bốn, năm tháng, đến cỡ tháng Chín, tháng Mười âm lịch cùng năm, xử dụng được. Có một công đoạn để có tên mắm cá chuồn bột phải làm trước khi ăn, là dùng đũa vớt hết xương cá chuồn ra, sau đó ấy đũa bản to (thường hay gọi là đũa bếp), khuấy hũ mắm làm cho toàn bộ phần thân cá chuồn tơi nát ra thành bột màu đỏ sậm, đặc sánh.
Trước đó khoảng tháng Năm tháng Sáu tới mùa thơm (dứa) trồng quanh vườn nhà chín rộ, chọn thời điểm trời tạnh ráo, chọn những quả dứa ngon, gọt sạch vỏ, cắt ra từng khoanh dày độ ba phân, xâu lại thành từng xâu, đem treo phơi nắng tốt cho khô. Đây là phụ gia để bỏ vào hũ mắm cá bột thành phẩm, làm cho mắm dịu bớt độ mặn thêm ngon ngọt, những khoanh thơm ấy
sau khi thấm thóp mắm ăn ngon đáo để.
Khi kể chuyện làm mắm cá chuôn bột. Hai mắt bác Đổng mãi chớp chớp như chực khóc. Bác nói: “Kể chuyện muối mắm tôi nhớ mẹ tôi quá quý anh ạ!”. Còn những người ngồi nghe chuyện, lại chim chíp miệng. Tôi nói chen vào: "Nghe bác Đổng diễn tả cách làm mắm cá chuộn bột, thật công phu và tỉ mỉ, ai cũng phát thèm!”. Bác Đổng kết luận, những ngày mùa đông giá lạnh, những khi không đi chợ, lúc bão lụt, đến bữa cơm, dùng giá múc mắm cá bột vào chén thêm gia vị tỏi, ớt, mắm có hương vị rất thơm. Khi ăn mỗi người tự dùng đũa quẹt từng quẹt mắm nho nhỏ cho vào chén cơm nóng hổi, mà ăn thật ngon.

Ngoài ra khi cuốn bánh tráng thịt heo, bánh xèo (đặc sản Quảng Nam), mắm
cá chuồn bột được pha chế thêm một ít nước mắm nhỉ, trở thành nước chấm ngon khỏi chê!
Nếu làm đúng cách, hợp vệ sinh mắm cá chuồn bột có thể để dành ăn quanh năm.

Hòa Văn
(2012)
-----
Ảnh: Hòa Văn  và Bác Văn Đức Đổng (bìa phải)

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2023

CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2024

 



Tâm sự
𝙻à𝚖 𝚝𝚑ơ 𝚔𝚑ô𝚗𝚐 𝚌𝚑ỉ 𝚝ỏ 𝚋à𝚢
𝚅𝚒ế𝚝 𝚟ă𝚗 𝚔𝚑ô𝚗𝚐 để 𝚗𝚐à𝚢 𝚜𝚊𝚞 𝚕𝚞ậ𝚗 𝚋à𝚗
𝚃𝚛ó𝚝 𝚖𝚊𝚗𝚐 𝚋𝚊 𝚌𝚑ữ 𝚜à𝚗 𝚜à𝚗.
𝚇𝚒𝚗 𝚕à 𝚑ơ𝚒 𝚝𝚑ở 𝚗ồ𝚗𝚐 𝚗à𝚗 𝚝𝚑ươ𝚗𝚐 𝚢ê𝚞
𝚃𝚑ơ 𝚟ă𝚗 𝚝𝚑𝚊 𝚝𝚑𝚒ế𝚝 𝚖ộ𝚝 đ𝚒ề𝚞
𝙼𝚘𝚗𝚐 𝚕ò𝚗𝚐 𝙽𝚑â𝚗 𝙽𝚐𝚑ĩ𝚊 í𝚝 𝚗𝚑𝚒ề𝚞 𝚝𝚛𝚊𝚘 𝚗𝚑𝚊𝚞.

𝙷Ò𝙰 𝚅Ă𝙽
1/1/2024

Chúc mừng năm mới 2024


 

Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2023

Thơ Nguyễn Văn Gia: LÊN CHÙA

 


Nhà thơ Nguyễn Văn Gia


MANG GƯƠM

Xa lắc rồi
niết bàn
Buổi thiền sư
mang gươm
Vô thường
bỗng bất thường
Niệm niệm
tâm bất an.

LÊN CHÙA

Lên chùa tìm chút thảnh thơi
Ai dè
chùa cũng như… đời ngoài kia
Cũng thứ hạng
cũng phân chia
Chỗ này vô nhiễm
chỗ kia thị trường
Đành rằng tất cả vô thường
Thôi ta về lại phố phường
ẩn tu.

Ở MỘT NƠI
CHÙA KHÔNG CÓ PHẬT


Đã hơn hai nghìn năm trăm năm
Mắt Đức Phật vẫn khép hờ
với nụ cười bí ẩn
Thượng sầu hạ hỉ
Sao niềm vui trốn biệt nơi đâu…

Trong nhà đầy báu vật (1)
Chẳng cần tìm đâu xa
Đừng mất công tìm Phật
Thế Tôn tại lòng ta

Chùa xây trăm nghìn tỷ
Tượng ngọc tượng vàng
Võng lọng xa hoa…
Những thứ mà Thái tử Tất-đạt-đa
đã ngày xưa từ bỏ
Đã lâu không đến chùa
Bởi lòng kính ngưỡng tăng ni nhạt phai
Lòng tin bị đánh tráo
Không còn ngồi dưới hiên chùa xưa
Bình yên ngắm đám mây trôi
Lòng ngậm ngùi cái lẽ vô thường của đất trời
Tai không còn nghe
tiếng chuông sớm chuông chiều
ngân nga hồn dân tộc…

Lên chùa
với nén tâm nhang
Tam quan mách bảo
Phật đang vắng nhà
Trở về phụng dưỡng mẹ cha
Dẫu không thờ Phật
cũng là quy y

Chốn thanh tịnh trang nghiêm
Ai bày ra ồn ào lễ hội
Cầu lợi cầu danh
Buôn thần bán thánh
Chẳng thấy đâu các bậc chân tu
Chỉ thấy tràn lan những thầy bói thầy cúng
Rộn rịp dâng sao giải hạn
Thỉnh vong oan gia trái chủ
Xưa “Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật” (2)
Nay bọn giả sư hành tung như thảo khấu

Mắt Đức Phật vẫn khép hờ
với nụ cười bí ẩn
Hơn hai ngàn năm trăm năm
Giữa muôn trùng vây
và vô vàn kiếp nạn
Nơi góc biển đầu non
Vẫn sáng soi
vầng trăng chánh pháp
Những bậc chân tu ẩn mình đâu đó
Không đủ phước duyên chẳng dễ gì gặp được
Buồn thay!

Nguyễn Văn Gia
_____
(1) “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch” (Trần Nhân Tông)
(2) “Buông con dao đồ tể xuống, đứng ngay đó mà thành Phật

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2023

Thơ Hòa Văn: 𝚃𝚁Ù𝙽𝙶 𝙺𝙷Ơ𝙸

 


𝙱𝚒ể𝚗 𝚡𝚊 𝚛𝚞 𝚖ã𝚒 𝚕ờ𝚒 𝚝𝚑ươ𝚗𝚐

𝚈ê𝚞 𝚊𝚒 𝚋ỏ 𝚡ứ 𝚟ề 𝚟ươ𝚗𝚐 𝚌á𝚝 𝚖ề𝚖


𝚃ơ 𝚝𝚛ờ𝚒 𝚝ừ𝚗𝚐 𝚐𝚒ọ𝚝 𝚜ươ𝚗𝚐 đê𝚖

𝚃𝚛ă𝚗𝚐 𝚖ờ 𝚜ó𝚗𝚐 𝚍ộ𝚒 𝚖ộ𝚝 𝚖𝚒ề𝚗 𝚗𝚑ớ 𝚗𝚑𝚞𝚗𝚐


𝙷ỏ𝚒 𝚖ê𝚗𝚑 𝚖ô𝚗𝚐 ơ𝚒 𝚕ạ𝚗𝚑 𝚕ù𝚗𝚐

𝚃𝚛ă𝚖 𝚗ă𝚖 𝚖𝚞ố𝚒 𝚖ặ𝚗 𝚝𝚛ù𝚗𝚐 𝚙𝚑ù𝚗𝚐 𝚋𝚒ể𝚗 𝚔𝚑ơ𝚒...


𝙼ộ𝚝 đờ𝚒 𝚟ơ𝚒 đầ𝚢, đầ𝚢 𝚟ơ𝚒

𝙺𝚑ô𝚗𝚐 𝚡𝚊 𝚗𝚐𝚞ồ𝚗 𝚌ộ𝚒 𝚕à 𝚗ơ𝚒 𝚝ì𝚖 𝚟ề ! 

𝙷ò𝚊 𝚅ă𝚗

Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2023

HÒA VĂN: BÕ CAM



𝚃𝚛ó𝚝 𝚕ỡ 𝚜𝚊𝚗𝚑 𝚛𝚊 𝚝𝚛ê𝚗 𝚌õ𝚒 𝚙𝚑à𝚖 

𝚁á𝚗𝚐 𝚗í𝚞 𝚌𝚑ú𝚝 𝚕ò𝚗𝚐 𝚌𝚑𝚘 𝚋õ 𝚌𝚊𝚖                      𝙷ỏ𝚒 𝚝â𝚖 𝚝â𝚖 𝚑ỏ𝚒 𝚊𝚗 𝚗𝚑𝚒ê𝚗 𝚝𝚘ạ𝚒   

𝙱𝚒ế𝚝 𝚍ẫ𝚞 𝚍ở 𝚑𝚊𝚢 𝚌ứ 𝚟ậ𝚢 𝚕à𝚖!.

𝙷ò𝚊 𝚅ă𝚗